PHẦN 

LỜI BẠT

 

 

Đời càng đi sâu vào mạt pháp , sự khổ của nhơn loại càng thêm nhiều.  Đó cũng là do cộng nghiệp của chúng sanh chứa góp từ nhiều kiếp trước đến kiếp này , đã tới thời kỳ bộc pháp .  Túc-nghiệp đã sẵn , hiện nghiệp lại giúp duyên , như lửa gặp được dầu càng thêm lan cháy !

 

Thế giới ngày nay , chiến tranh hết nơi này đến nơi khác , nhiều chứng bịnh lạ xảy sanh , trộm cướp hoành hành , nhơn dân nghèo khổ .  Mỗi năm những tin tức : bão lụt , động đất , nắng hạn , mất mùa ở khắp các xứ không bíết là bao nhiêu ! Cảnh đã như thế ,con người phần nhiều càng hung ác, gian xảo , không biết thức tỉnh ăn năn .  Những thảm trạng do lòng tham địa vị , tình ái , tiền tài , gây ra kết quả lường gạt tàn hại lẫn nhau cũng không xiết kể !

 

Kinh Hoa-Nghiem nói : “Tâm như người họa khéo , vẽ vời cảnh thế gian . “  Cảnh đời vui khổ đã do hành vi lành , dữ, phát sanh từ tâm niệm của loài người , thì muốn làm dịu bớt thảm trạng ngày nay, mỗi người phải tự tỉnh ăn năn , giữ tám chữ :  hiếu , đễ , trung , tín , lễ , nghĩa , liêm , sỉ và tấm lòng chân thật ngay thẳng , biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau .  Ngoài ra , muốn tiêu trừ nghiệp chướng , tránh khỏi họa tai, người biết Phật pháp lại cần phải cầu nơi tha lực , như tu các hạnh : niệm Phật , niệm Quán-Thế-Âm , hoặc thọ trì mật chú nữa .

 

Xem kinh Quán-Âm Đại-Bi-Tâm Đà-Ra-Ni tôi thấy những công đức an vui , thoát khổ trong ấy rất cần thiết đối với hiện cảnh ngày nay, nhân có một Phật tử yêu cầu phên dịch , tôi liền vui lòng hứa nhận .

 

Theo trong Hiể-Mật-Viên-Thông , người tu Chân-Ngôn-Tông về sắc trần cần phải rõ rệt , như quán nước phải ra nước , quán lửa phải ra lửa  , chớ không thể khác được .  Riêng về thinh trần thì dù tiếng tăm đọc tụng có trại với Phạm-âm đôi chút cũng không sao , miễng có lòng tin tưởng chí thành là được oai thần công đức không thể nghĩ bàn.  Vậy người học Phật, muốn trì chú, đừng lấy điểm này làm nghi mà mất phần lợi ích .

 

Lại , từ trước đến nay , chú ngữ không phiên dịch , vì có năm duyên cớ :

 

  1. Vì tâm-niêm bí mật nên không phiên dịch .

 

Như chúng sánh dùng tâm yên lặng , tin tưởng , thành kính mà niệm chú , tất sẽ khế hợp với chân tâm của Phật , Bồ-tát mà được cảm ứng . Nếu biết nghĩa lý thì dễ sanh niệm phân biệt , cho đoạn này nghĩa như vầy , đoạn kia nghĩa như thế , kết cuộc vẫn ở trong vòng vọng tưởng , làm sao thông cảm với Phật tâm ?

 

  1. Vì nghĩa lý bí mật nên không phiên dịch .

 

Trong một chữ chân ngôn có nhiều nghĩa , nếu dịch nghĩa nà6 thì mất nghĩa kia , không được toàn vẹn . Thí dụ riêng một chữ “A” đã hàm súc nhữNg nghĩa như: Bất sanh , bất diệt , không , căn bản , chân thể và nhiều nghĩa khác nữa .

 

  1. Vì danh -tự bí mật nên không phiên dịch .

 

Những chữ trong chân ngôn , hoặc chỉ cho danh hiệu Phật , Bồ-tát , Thiên , Long, Quỉ , Thần , như chữ “Hồng” gồm bốn chữ Hạ , A, Ô, Ma mà hiệp thành , chỉ cho chủng tử của chư thiên .  Hoặc có thứ ở phương này không có như danh từ “Diêm-phù-thọ” chẳng hạn .

 

  1. Vì âm thanh bí mật nên không phiên dịch.

 

Các chữ chân ngôn có khi diễn tả âm thanh của tiếng gió reo, nước chảy , tiếng loài chim kêu , đọc lên có sức linh động , nên để nguyên –âm . Thí dụ : câu : “tô-rô tô-rô”  là chỉ cho tiếng lá cây ởcõI Phật rơi xuống .  Hoặc như chữ “Án” (Aum)đọc lên có năng lực thầm kín làm ru rung chuyển không gian .  Hay như hcữ Ta-bà-ha (SoWa-ha) có sức truyền cảm như một sắc lịnh .  Lại co ‘ nhiều danh từ đã để nguyên âm chữ Phạm sẳn từ trước đến nay, vì thuận theo xưa , nên không dịch ra .

 

  1. Vì sự sanh-thiện bí mật nên không phiên dịch

 

Như danh từ “bát-nhã”  người đọc lên sanh lòng tin tưởng , phát ra niệm lành , nếu dịch là “ trí huệ “ , thì sanh ý khinh thường , không quí trọng .

 

Trên đây là những nguyên nhân vì sao chú ngữ không dịch ra , chớ chẳng phải không có ý nghĩa .  Người học Phật phải nên xét nghĩ , chớ vội theo chỗ thấy hiểu cạn hẹp của mình , sanh lòng khinh mạn mà mang tội .

 

Lại, trong kinh có câu:  “Nếu tụng trì đúng pháp , tự nhiên sẽ được hiệu quả . “  Vậy tụng trì đúng pháp là sao ? Trong đây , xin chia hai phương diện :

 

a - Về mặt giữ gìn giới hạnh :

 

Người trì chú cần phải giữ trai giới , trừ sát, đạo , dâm ,vọng , kiêng cử rượu , thịt , hành hẹ , tỏi cùng các thức ăn hôi –hám .  Nơi thân phải thường tắm gội, thay đổi y phục sạch sẽ chớ đê/ cho trong người có muì hôi .  Khi đi đại tiểu xong, phải rửa tay đọc chú .  Trước khi trì chú cũng phải súc miệng cho sạch.  Lại nữa , trong thời gian kiết kỳ trì chú , người ấy chớ nên nói chuyện hĩ-hước , tạp nhạp , không nên khởi tâm hờn giận , hoặc tham tưởng sự ăn uống, ngủ nghỉ , cùng sự dục lạc ngoài đời .  Phải giữ lòng thanh tịnh , tin tưởng , thành kính .

 

b -  Về mặt lập đàn tụng niệm :

 

Theo đúng pháp , người trì chú nào phải thờ vị bổn tôn của chú ấy .  Như trì chú Đại-Bi thì phải thờ tương Thiên—Nhãn, hoặc tượng Quán-Âm 24 tay , 18 tay , 4 taỳ, hay ít lắm là tượng Quán Âm thường cũng được . Nên để tương day mặt về Phương Tâỵ  (Theo quyển “Bách lục thỉnh Quán-âm nghi”  thì nêu có tượng Bổn –sư , nên để tượng Thích-Ca hướng về phương nam, tượng Quán-Âm hướng về phương Đông ).  Đàn tràng nên lựa chỗ vắng lặng sạch sẽ , thường dùng hương , hoa, nước , trái cây , cùng các thức ăn cúng dường tôn tượng.  Nếu có phương tiện , treo tràng phang, bảo-cái lại càng tốt .  Thời gian cầu nguyện , hoặc 7 ngày , 21 ngày , 49 ngày nên giữ cho đúng .  Trước khi vào đàn kiết -giới y như kinh đã chỉ dạy .  Trong một ngày đêm, chia ra làm ba , bốn hoặc sáu thời , tụng niệm tiếp tục , tiếng tụng cần phải rành-rẽ , rõ ràng .  Ngoài ra, nghi thức lễ bái trì-niệm cũng cần phải biết và học thuộc trước. 

 

Trên đây là nói về cách lập đàn kiết giới tụng niệm để cầu cho được mau hiệu nghiệm , nếu người thường tụng trì, không bắt buộc phải y theo lệ ấy .  Nhưng trong hai phương diện trên , gắng giữ được phần nào lại càng haỵ

 

Chúng sanh căn cơ , tâm -bịnh và sở thích vô cùng, giáo môn của Phật , Bồ-tát cũng chia ra vô-lượng . Dịch ra quyển này , tôi chỉ kính vâng theo bi-nguyện của chư Phật , Bồ -tát và thuận với sự mong cầu , thích hợp của hành nhơn mà thôi .  Nêu vị nào lấy tâm Bồ-đề làm nhân , tùy theo chí nguyện , lựa một pháp –môn mà tu , đề có thể giải thoát .  Nhưng .

 

Chúng sanh đời mạt pháp phần nhiều là hàng trung hạ , it’ có bậc thượng căn , cần nương nhờ nơi tha-lực mới mong được kết quả chắc chắn .  Tịnh-tông và Mật –tông đều thuộcvề tha lực pháp môn , mà Tịnh –tông lại là chỗ qui –túc cho các tông khác .  Nguyện xin các đồng-nhơn , từ đây dứt dữ làm lành , tin sâu lý nhân quả, rồi hoặc chuyên niệm Phật , hoặc lấy niệm Phật làm chánh , tụng kinh , trì chú hay tham thiền làm trợ , để tự tu và khuyên người .  Như thế mới là mưu hạnh phúc cho chính mình, cho thân nhơn và tất cả sanh loại . Như thế mới có chuyển họa thành phước , đổi cảnh trạng thống -khổ trược mắt thành cảnh giới an ổn, vui tươi .  Để rồi ngày lâm chung lại được cùng nhau chân bước lên chín phẩm liên-đài , thân ra khỏi ba ngàn thế giới , thấy Di –Đà trong hiện kiếp , chứng giác đạo nơi tương lai . Như vậy chẳng quí hơn ư ?

 

Liên Du


 

   


Trang Nhà
  |  Bài Mới  |  
Kinh Điển |  Thần Chú  |  Pháp Âm  |  Lịch Đại Tổ Sư
Hình Ảnh  |  Linh Tinh  |  Tự Điển  |  Lịch Trình  |  
Liên Lạc