PHẦN
ĐẠI –BI TRÌ NGHIỆM
Thanh Biện Luận-Sư, người xứ Tây-Thiên-Trúc , sức học uyên bác , rất thâm về Vô tướng tông. Các ngoại đạo nghe danh , đến vấn nạn đều bị nghĩa không mà phá tất cả . Có một lần , luận sư gặp một nhà ngoại đạo nổi tiếng là giỏi , hai bên tranh biện nhau hơn nửa ngày , ngoại đạo bị ly/ khuất mà vẫn cố chấp không chịu thua, do đó tự thân bỗng biến thành đá, đến sáu tháng sau nghe sấm nổ mới phục nguyên lại thành người.
Về sau , ngài xem bộ luậ về Hữu tướng tông của Hộ Pháp đại sư , đem nghĩa học của mình đối chiếu vẫn không phá hoại được , mới than rằng: “Nếu không Phải đức Di Lặc ra đời thành Phật , thì ai giải quyết được mối nghi ngờ của ta ? “ Nhân đó, ngài đến trước tượng Quán-Tự-Tại Bồ-Tát , tụng chú Đại-Bi tuỳ tâm đà-ra-ni ba năm. Một đêm, đức Quán-Thế-Âm hiện sắc thân tốt đẹp đến hỏi : “Ngươi tụng chú để mong cầu điều chi ?” Luận sư đáp : “con nguyện lưu trụ thân này đợi đe6’n lúc Từ Thị Như Lai ra đời để thưa hỏi về giáo nghĩa “ Bồ-tát nói : “Thân người mong manh . Cõi đời hư huyễn , sao không tu thắng hạnh cầu sanh lên cung trời ĐÂu-Suất , chẳng là mau được gặpgỡ hơn ư ? “ Ngài thưa : “Đức Di-Lặc tuy hiện trụ nơi nội việncung trời thứ tư , nhưng chưa thành Phật , vì thế con muốn đợi đến lúc ngài hiện thành chánh giác nơi cõi nhân gian . Chí con đã quyết định không thể lay chuyển! “. Bồ-tát bảo : “Đã như thế , ngươi nên đi qua thành phía nam xứ Đại-An-Đạt-La , thuộc về miền Nam Thiên Trúc . Cách đó không xa có một tòa sơn nham , chính là chỗ ở của thần Chấp Kim Cang . Sau khi đến nơi , ngươi nên đối trước sớn nham tụng chú Chấp Kim Cang thần đà-ra-ni , tất sẽ được toại nguyện “.
Luận sư vâng lời , đi đến nơi hành trì y như thế . Ba năm sau , thần hiện ra và hỏi : “Ông cầu nguyện đều chi ?” . Đa’p : “Tôi vâng lời đức Quán-Thế-Âm Bồ -Tát mách bảo , đến đây tri tụng , nguyện lưu thân này sống mãi đợi đến khi Phật Di Lặc ra đời . Xin tôn-thần cho tôi được thành tựu như ý muốn “. Chấp Kim Cang thần bảo : “Trong sơn-nham này có cung điện của thần A-tu-la . Ông nên gia trì chú Đại-Bi trong hạt cải trắng , rồi liệng vào thì cửa đá sẽ mở . Sau khi ấy , ông nên đi thẳng vào trong , sẽ có phương tiện để cho ông trụ thân lâu dài mà chờ đợi “. Luận sư hỏi : “ Ở trong cung động , cách biệt ngoài trần , khi Phật ra đời làm sao tôi được biết ?” Thần nói : “Chừng ấy tôi sẽ cho ông hay “.
Ngài Thanh-Biện lại y lời , tinh thành tụng chú trong hạt cải ba năm rồi liệng vào sơn nham , bỗng thấy vách đá mở ra , trong ấy hào quang chiếu sáng . Lúc bấy giờ co ‘rất đông đại chúng tề tựu đến xem , bàn bàn luận luận quên cả trở về . Luận sư tướng trạng an lành bước vào cửa đá , rồi day lại nói : “Tôi cầu nguyện đã lâu , muốn trụ thân này chời Đức Từ-Thị ra đời , nhờ sức thánh linh , bổn nguyện từ đây đã toại . Vậy đại chúng nên theo tôi , để được ngày kia thấy Phật nghe pháp “ Trong chúng nghe nói sợ hãi , cho đó là hang loại độc-long , đi vào chắc mất thân mạng . Luận sư đôi –long , đi vào chắ cmất thân mạng . Luận sư đôi ba phen gọi bảo, chỉ có sáu người thong thả đi vào trong , của đá liền khép lại .
Lúc ấy đại chúng ở ngoài thấy vậy , hết sức hối tiếc , tránh mình đã nghĩ nói lỗi lầm .
Trích “Đường Tây-Vức ký”.
* * * * *
Đời nhà Tống , Huệ-Tài pháp –sư , người huyện Lạc-Thanh, đất Vĩnh-Gia , xuất gia hồi thuở còn bé . Sau khi thọ đai-giới , ngài đi tham học nhiều nơi mà không thông hiểu . Tự hận mình nghiệp chướng sâu dày , pháp sư thường tụng chú Đại-Bi cầu cho được trí huệ . Hành trì đã lâu , bỗng một đêm ngài nằm mộng thấy một vị phạm tăng cao vài trượng , cởi áo casa đắp lên mình . Sau khi thức dậy , pháp sư cảm thấy tâm trí tỏ sáng , những kinh nghĩa đã nghe từ trước đến giờ , một lúc đều nhớ rõ ràng thông suốt .
Về sau, ngài tham -yết Từ-Vân sám chủ , hằng theo phục dịch gần bên , chỗ giải ngộ lại càng sâu sắc . Nên hiệu Trị-Bình năm đầu , ngài trụ ở Pháp-Huệ-bảo các, được vua tứ hiệu là Quảng-Từ . Không bao lâu lại thối cư về ở bên tháp Lôi-Phong , tinh –tu về môn Tịnh-độ . Ngài thường đứng co một chân trì chú Đại-bi 108 biếng , lấy đó làm thường khóa , lại đứng dở chân một ngày đêm niệm thánh hiệu Di-Đạ Một đêm , pháp sư mộng thaý mình đến chỗ cảnh giới sáng suốt , nhiều cung điện lâu các trang nghiêm , có người bảo : “Tịnh độ trung phẩm là nơi thác sanh của ông “.
Mùa xuân niên hiệu Nguyên-Phong năm đầu , ngài vì hàng đạo tục ngàn người , truyền giới ở Lôi-Phong. Khi vừ mơi làm phép yết-ma, nơi đỉnh tượng Quán-Thế-Âm bỗng phóng ánh sáng rực rỡ , đèn đuốc cùng ánh mặt trời thảy đều lu mờ . Ngài thủ-Nhứt thiền-sư ở chùa Tịnh-từ vì đó làm bài “giới –Quang-Ký” .
Ngày 21 tháng 5 niên hiệu Nguyên-Phong thứ 6 , pháp sư tắm gội thay y phục lên giảng-toà đề bài kệ khen Phật rồi bảo đại chúng: “Ta đã chắc chắn được sanh về Tịnh -độ “ . Nói xong yên lặng mà tịch , thọ được 86 tuổi .
Trích “Phật -tổ thống –ký “ .
* * * * *
Đời nhà Thanh, Ngô-Doãn-Thăng người ở Huy-châu, huyện Hấp, lúc tuổi trẻ thường qua lại buôn bán ở hai châu Tô , Hàng .
Một hôm , nhân có dịp qua Hổ-khâu , tình cờ ông gặp vị tăng đang hóa trai . Vị này nhìn chăm chú vào mặt ông một lúc lâu rồi nói : “ người cũng có căn lành , nhưng tiếc vì đến lúc 29 tuổi bị nạn chết đắm , biết làm sao ? “ Doãn-thăng sợ quá , cầu phương pháp giải thoát . Vị tăng trầm ngâm giây phút rồi bảo : “Từ đây về sau , ngươi nên giới sát phóng sanh , chí thành niệm Phật và trì chú Đại-Bi, may ra có thể khỏi được “. Ngộ-Doãn-Thăng y lời , về nhà trì chú niệm Phật và thường lấy đó khuyên người .
Qua năm 29 tuổi , ông thuê thuyền từ Hàng Châu trở về quê quán , bạn đồng hành có 16 ngườị Thuyền ra đi được vài mươi dặm bỗng gió to sóng lớn nổi lên , thết rất nguy cấp . Doãn Thăng chợt nhớ lời vị tăng nói khi trước , vội vã chấp tay tụng chú niệm Phật . Giây phút thuyền chìm , tất cả người đi trên ấy đều bị sóng gió trôi giạt . Trong lúc hôn mê , ông bỗng nghe tiếng nói : “ Ngô-Doãn-Thăng co ‘công trì chú niệm Phật và khuyến người , được khỏi tai nạn này ! “ Mở mắt tỉnh ra nhìn xung quanh , ông thấy mình đã được dân chài lưới vớt lên bờ , y phục ướt đẵm , mũ giày đều bị nước cuốn đi mất, duy nơi tay còn cầm chắc xâu chuỗi 18 hột thường dùng để tụng niệm hằng ngày. Hỏi ra , thì mười sáu người kia đã bị nước cuốn không tìm thấy tung tích .
Từ đó về sau, ông tin tưởng công đức niệm Phật trì chú không thể nghĩ bàn , càng thêm tinh-tấn , từng dùng hương viên đốt nơi cánh tay thành bốn chữ “cầu sanh Tây-Phương” . Khi gặp ai ông cũng nói lý nhân quả , khuyên việc tu hành . Có được tiền ông làm những công đức : tạo tượng cất chùa, phóng sanh , bố thí , cùng các việc phước thiện khác . Danh lành của ông càng lúc càng truyền xa , cho đến tại vùng Hàng-châu , tên Ngô-Doãn-Thăng đàn bà con trẻ đều biết .
Ngày mùng một tháng năm , nên hiệu Đáo-Quang thứ chín , khi lâm chung , ông giữ chánh niêm phân minh , tự nói : “Tôi thấy vô số Bồ -tát did kinh thành ở trước mặt “ . Nói xong , ngồi yên mà qua đời . Lúc ấy ông được 66 tuổi .
Trích “Nhiễn-Hương-Tục-Tập” .
* * * * *
Thời Trung-Hoa dân quốc, ở Thai-châu co vị tăng hiệu là Thích-Kim-Trược-Sư xuất gia nơi chùa Diên-thọ hồi tám tuổi, đến hai mươi tuổi lại thọ đại-giới tại chùa Quốc-Thanh .
Trên đường tu hành , vị đại đức, thầy thế-độ của ông, chỉ khuyên tụng chú Đại-Bi và trì thánh-hiệu Quán-Thế-Âm , y lời mỗi ngày sư tụng chú 48 biến , ngoài ra chỉ chuyên tâm niệm thánh hiệu không cho gián đoạn .
Trì tụng lâu ngày , những thoí quen trần nhiễM lúc trước lần lần tiêu mòn , tâm tánh lần lần tỉnh sáng , ông xem danh lợi cuộc đời như mây bay bọt nước . Sư thường vì người trị bịnh rất hiệu nghiệm , nhưng không thọ tiền thù đáp. có nhiều kẻ cầu hỏi xin truyền cho phương pháp , ông bảo : “Tôi chỉ trì chú Đại-Bi và niệm Quán-Thế-Âm mà thôi . “
Trong năm Mậu Thìn (Dân Quộc) , sư trụ ở một am nhỏ , ban đêm bị ăn cướp vào khảo tiền Sauk hi chúng xét khắp am khộng thấy không có chi nỗi giận , đâm ông một dao ở tay mặt và hai dao ở bên trán . Thương thế tuy nặng , nhưng sư không chết , vết đâm cũng lần lần lành , để lại ba dấu thẹo lớn ăn sâu vào . Đây cũng là nghiệp trái nhiều kiếp , do công đức trì niệm , nên chuyển quả báo nặng nơi ác đạo thành ra quả nhẹ ở hiên đời .
Mùa hạ năm Kỷ tỵ , sư đến Ninh Ba định an cư ở chùa A-Dục-Vương, nhưng vì số chúng dự thâu đã đủ , mấy lần xin gia nhập , cũ cũng không được hứa nhận . Chưa biết sẽ đi đâu , ông ngồi tĩnh toạ nửa ngày , không có lời hờn trách , sắc oán hận . Vị Giám tự tăng thấy thế , đưa sư đến tạm ở nơi Dưỡng-tâm đường . Ngày mãn hạ , vị tăng quản đường lại theo quy lệ , không cho ở .
Sư nói : “Chẳng bao lâu tôi sẽ sanh về Tây-Phương , xin từ bi cho tôi lưu trú trong một thời gian ngắn nữa . “
Đến ngày 19 tháng 10 , sư nói với đại chúng rằng : “Trong vòng ba hôm nữa , tôi sẽ thoát ly biển khổ , sanh về Cực-Lạc . Xin khuyên bạn đồng tu thành tâm chú niệm Phật hoặc niệm Quán-Âm , quyết định sẽ được vãng sanh , vì Phật không bao giờ nói dối . “ Lại bảo : “ Đức Quán-Thế-Âm Bồ-tát tay cầm đài bạc thường thường hiện ở trước tôi . “ Chúng cho là lời noí phô , tỏ vẻ không tin . Qua ngày 21 , trước giờ ngọ , sư đắp y lên chánh điện lễ Phật , lại đến trước tăng quản đường từ tạ nói : “sau thời ngọ một giờ mình sẽ vãng sanh . Lúc ấy , mọi người còn cho là lời nói dối . Đến giờ ngọ, sư cũNg cùng chúng thọ trai , ăn đủ hai chán như mọi ngày không giảm , lại bảo bạn đồng liêu rằng : “ Theo quy lệ của nhà chùa, người chết đưa thi hài vào núi sâu , tiền công khiêng đi phải bốn giác . Nay tôi không có vật chi , chỉ còn đôi dép , xin phụng tặng , nhờ thầy lo liệu giùm việc ấy . “
Quả nhiên , sau thời ngọ một giờ , sư ngồi day mặt về tây , an ổn mà hóa .
Trích “Du-Huệ-Úc sao tập”.
* * * * *
Ấn –Quang đại sư , một vị cao tăng cận đại ở Trung Hoa , thuở sanh bình , hết sức tự tu và hoằng hoá pháp môn tịnh độ . Thường khóa của ngài là ngoài thời nei^.m Phật chánh thức , lại kiên trì chú Đại –Bi . Đại sư tu hành tinh tấn , sức từ bi cảm hoá đến hàng dị loại .
Năm Dân-Quốc thứ 19 , ngài trụ ở chùa Bảo-Quốc tại Thái Bình , trong tịnh thất bỗng sanh ra vô số rệp, nhiều cho đến đỗI nó bò lên song cửa , trên mặt bàn . Có mấy vị đệ tử lo nghĩ đại sư già cả , sợ không kham chịu sự khuấy nhiểu , đôi ba phen xin vào trong thất dọn bắt . Ngài không cho và bảo : “ Việc này chỉ nên tự trách mình kém đạo đức mà thôi . Thuở xưa có một vị cao tăng cũng bị loài rệp phá rối chịu không kham quở bảo nó phải dời đi chỗ khác , chúng liền đem nhau bỏ đi . Nay ta tu trì bất lực , nên không được sự cảm ứng như thế , lại còn nói gì . “ Rồi đại sư vẫn an nhiên mà ở , không để ý . Ít lâu sau, loài rệp bỗng nhiên tuyệt tích , ngài cũng khôn gnoí cho ai biết . Lúc ấy gần tiết đoan ngọ Đức-Sum Pháp sư chợt nhớ đến việc trước , hỏi thăm , ngài bảo: “Đã đi hết từ lâu rồi, không còn con nào nữa “. Pháp sư cho là ngài lớn tuổi mắt mờ yếu nên không thấy , quyết ý xin vào trong xem lại , quả nhiên chúng đã đi đâu hết sạch . Hay là nó cũng vì ngài mà dời chỗ ư ?”.
Đại sư thường gia trì chú Đại –Bi vào , nước , gạo, hoặc tro sạch để cứu những chứng bịnh mà các y-sư bó tay . Mỗi lần như thế , đều được hiệu nghiệm lạ lùng! Một ngày , nơi lầu Tàng-kinh của chùa phát hiện ra vô số mối trắng , đại sư ở trong thất nghe nói liền trì chú nguyện , loài mối cũNg kéo nhau đi mất .
Những đệ tử ở xa bị bịnh dây dưa không hết, ngài khuyên nên trì chú nào gạo nấu ăn cho đến chừng nào hết bịnh mới thôi . Phương pháp gọi là Đại-Bi phạn . Cách nấu cơm , theo đại sư , nên khéo nấu gạo nước cho vừa chừng, đừng đổ nước nhiều rồi chắt ra , vì như thế đã hao củi tiền mà tổn phước .
Thuở còn nhỏ , ngài hay dau yếu , có người giỏi về tươ”ng pháp cho rằng thọ chỉ đến 38 tuổi là nhiều . Nhưng sau đại sư sống mạnh khỏe đến 80 tuổi mới vãng sanh . Người chú tâm tu-niệm hay cải đổi số mạng, việc ấy quả có như thế !
Trích “Ấn –Quang Đại-Sư truyện ký”
|