PHẦN KINH VĂN
* * * * *
Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn
Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại
Đại - Bi - Tâm - Đà - Ra - Ni
Đời Đường, Sa Môn Dà - Phạm - Đạt - Mạ (1) người xứ Tây - Thiên -Trúc dịch .
* * * * *
Như thế tôi nghe, một thời , đức Phật Thích Ca Mâu Ni (2) ngự nơi đạo - tràng Bảo - Trang - Nghiêm, trong cung điện của Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát ở tại non Bồ - Đa`- Lạc - Ca (3) . Đức Phật ngồi nơi tòa sư tử, tòa này trang nghiêm thuần bằng vô - lượng ngọc báu tạp - ma - ni, xung quanh treo vây nhiều tràng - phang bá - bảo .
Khi ấy , đức Như - Lai ở trên pháp - tòa , sắp muốn diễn nói môn tổng - trì - đà - ra - ni (5), có vô lượng số Bồ - tát - Ma - Ha - tát (6) câu hội . Các vị ấy là:
Tống - Trì - Vương Bồ -Tát ,
Bảo - Vương Bồ - Tát,
Dược - Vương Bồ - Tát,
Dược - Thượng Bồ - Tát,
Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát,
Đại - Thế - Chí - Bồ - Tát,
Hoa - Nghiêm Bồ - Tát,
Đại -Trang - Nghiêm Bồ -Tát,
Bảo - Tạng Bồ - Tát ,
Đức - Tạng Bồ - Tát,
Kim - Cang - Tạng Bồ - Tát,
Hư - Không - Tạng Bồ - Tát,
Di - Lặc Bồ - Tát (7) ,
Phổ - Hiền Bồ - Tát,
Văn - Thù – Sư - Lợi Bồ - Tát (8) ...
Những vị Bồ Tát như thế đều là bậc Quán - đảnh đại - pháp - vương - tử (9)
Lại có vô - lượng vô - số đại Thanh - văn tăng đều là bậc A - la - hán (10) tu hạnh thập - địa câu - hội . Trong ấy, ngài Ma - Ha - Ca - Diếp (11) làm thượng - thủ .
Lại có vô - lượng Phạm - ma - la - thiên (12) câu hội . Trong ấy , ngài Thiện - Tra -Phạm - Ma (13) làm thượng - thủ .
Lại có vô - lượng chư thiên - tử ở cõi trời Dục - giới câu hội . Trong ấy , ngài Cù - Bà - Dà – thiên - tử (14) làm thượng thủ .
Lại có vô - lượng hộ - thế Tứ - thiên vương (15) câu hôi. Trong ấy , ngài Đề - Đầu - Lại - Tra (16) làm thượng thủ .
Lại có vô - lượng Thiên, Long , Dạ - xoa, Càn - thát - bà, A - tu - la, Ca – lâu- la, Khẩn - na - la, Ma - hầu - la - dà, Nhơn - phi -nhơn (17) câu hội . Trong ấy , ngài Thiên - đức đại - long - vương làm Thượng - thủ .
Lại có vô - lượng chư thiên - nữ ở cõi trời dục - giới câu hội . Trong ấy , ngài Đồng - Mục thiên nữ làm thượng - thủ .
Lại có vô - lượng thần Hư - không , thần Giang - Hải thần Tuyền - nguyên , thần Hà - chiếu , thần Dược - thảo , thần Thọ - lâm , thần Xá -trạch , thần Cung - điện , cung Thủy - thần , Hỏa -thần , Địa - thần , Phong - thần , Thổ - thần , Sơn - thần , Thạch -thần .... đều đến tập hội .
Bấy giờ , đức Quán - Thế - Âm - Bồ - Tát ở trong đại hội , mật phóng ánh thần - thông - quang - minh, chiếu sáng mười phương sát - độ và cõi tam - thiên đại - thiên thế - giới này đều thành sắc vàng . Từ thiên cung, long cung, cho đến cung điện của các vị tôn - thần thảy đều chấn - động . Biển cả, sông, nguồn , núi Thiết - vi (18) núi Tu-di (19), cùng Thổ - sơn, Hắc -sơn, cũng đều rung động dữ dội . Ánh sáng của mặt trời , mặt trăng, tinh tú , châu báu và lửa đều bị ánh kim - quang rực rỡ kia lấn át làm cho ẩn mất không hiện .
Lúc đó , ngài Tổng - Trì - Vương Bồ - Tát thấy tướng - trạng hi - hữu ấy, lấy làm lạ cho là việc chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay, dùng lời kệ hỏi Phật, để biết tướng thần thông kia do ai làm ra . Kệ rằng:
Ai thành chánh - giác trong ngày nay ?
Khắp phóng ánh sáng như thế này .
Mười phương sát - độ thành sắc vàng ,
Cả cõi đại - thiên cũng như vậy .
Ai được tự - tại trong ngày nay ?
Phô diễn thần - lực ít có này .
Không ngằn cõi Phật đều rung động ,
Cung - điện long - thần cũng long - lay .
Sức thần - thông này ai làm ra ?
Là ánh quang - minh đấng Phật - đà ,
Là của Bồ - tát , Đại Thanh - văn ,
Hay trời Đế - Thích cùng Phạm , Ma ?
Nay trong chúng hội đều sanh nghi ,
Chẳng biết nay là nhân duyên gì ?
Muốn cầu hiểu rõ, tâm thành kính ,
Hướng trông về ngôi Đại - từ - bi .
Đức Phật bảo Tổng - Trì - Vương Bồ - Tát:
-Thiện -nam tử : Các ông nên biết trong Pháp - hội này , có vị Bồ - tát Ma - ha - tát tên là Quán - Thế -Âm - Tự - Tại, từ vô - lượng kiếp đến nay đã thành - tựu tâm đại - từ - bi lại khéo tu tập vô - lượng đà - ra - ni môn . Vị Bồ - tát ấy vì muốn làm cho chúng - sanh được lợi ích an vui , nên mới mật phóng sức thần - thông như thế .
Đức Như-Lai vừa nói lời ấy xong, Quán-Thế-Âm-Bồ-Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay hướng về Phật mà thưa rằng: -Bạch đức Thế -Tôn! Tôi có chú Đại –Bi-Tâm đà –ra-ni, nay xin nói ra, vì muốn cho chúng –sanh được an vui, được trừ tất cả bịnh , được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng , được xa lìa chướng nạn, được tăng trưỡng tất cả công đức của pháp lành, được thành-tựu tất cả thiện-căn , được tiêu-tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu . Cúi xin Thế -Tôn từ bi doãn hứa .
Đức Phật bảo: - Thiện – nam tử ! Ông có tâm đại -từ -bi , muốn nói thần –chú (20) để làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh. Hôm nay chính là lúc hợp thời , vậy ông nên mau nói ra, Như – Lai tuỳ hỉ , chư Phật cũng thế .
Quán -Thế -Âm Bồ -Tát lại bạch Phật : - Bạch đức Thế -Tôn! Tôi nhớ vô –lượng ức kiếp về trước , có Phật ra đời, hiệu là Thiên – Quang – Vương Tịnh-Trụ Như-Lai Đức Phật ấy vì thương nghĩ đến tôi và tất cả chúng sanh, nên nói ra môn Quảng - Đại Viên Mãn Vô -Ngại -Đại - Bi -Tâm đà –ra –ni . Ngài lại dùng tay sắc vàng xoa nơi đầu tôi mà bảo: “Thiện –nam tử ! Ông nên thọ trì tâm – chú này , và vì khắp tất cả chúng sanh trong cõi nước ở đời vị -lai, mà làm cho họ được sự lợi ích an vui lớn”. Lúc đó tôi mới ở ngôi sơ-địa , vừa nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ -bát -địa . Bấy giờ tôi rất vui mừng , liền phát thệ rằng: “ Nếu trong đời vị lai , tôi có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này , thì xin khiến cho thân tôi liền sanh ra ngàn tay ngàn mă’t “. Khi ấy tôi phát thệ rồi , thì ngàn tay ngàn mắt đều hiện đủ nơi thân. Lúc ấy, cõi đất mười phương rung động 6 cách , ngàn đức Phật trong mười phương đều phóng ánh quang- minh soi đến thân tôi và chiếu sáng khắp mười phương vô –biên thế -giới . Từ đó về sau, tôi ở trong vô -lượng pháp hội của vô-lượng chư Phật , lại được nghe và thọ trì môn đà-ra-ni nàỵ Mỗi lần nghe xong, tôi khôn xiết vui mừng , liền được vượt qua sự sanh tử tức vi tế trong vô số ức kiếp và từ ấy đến nay tăng vẫn hằng trì tụng chú này , chưa từng quên bỏ .
Do sức trì tụng ấy , tùy theo chỗ sanh , tôi không còn chịu thân bào –thai , được hóa sanh nơi hoa sen, thường gặp Phật nghe pháp. Nếu có vị Tỳ-Khưu, Tỳ-Khưu-ni, Ưu-Bà-Tắc , Ưu-Bà-Di (23) hay đồng –nam , đồng -nữ nào, muống tụng trì chú này trước tiên phải phát tâm từ -bi đối với chúng sanh va sau đây y theo tôi mà phát nguyện :
Nam mô đại –bi Quán -Thế -Âm ,
Nguyện con mau biết tất cả pháp ,
Nam mô đại –bi Quán -Thế -Âm ,
Nguyện con sớm được mắt trí huệ ,
Nam mô đại –bi Quán -Thế -Âm ,
Nguyện con mau độ các chúng –sanh ,
Nam mô đại –bi Quán -Thế -Âm ,
Nguyện con sớm được phương tiện khéo ,
Nam mô đại –bi Quán -Thế -Âm ,
Nguyện con mau lên thuyền bác-nhã ,
Nam mô đại –bi Quán -Thế -Âm ,
Nguyện con sớm được qua biển khổ .
Nam mô đại –bi Quán -Thế -Âm ,
Nguyện con mau được đạo giới định .
Nam mô đại –bi Quán -Thế -Âm ,
Nguyện con sớm lên non niết bàn .
Nam mô đại –bi Quán -Thế -Âm ,
Nguyện con mau về nhà vô –vi .
Nam mô đại –bi Quán -Thế -Âm ,
Nguyện con sớm đồng thân pháp –tánh,
Nếu con hướng về nơi non đao ,
Non đao tức thời liền sụp đổ .
Nếu con hướng về lửa , nước sôi ,
Nước sôi , lửa cháy tự khô tắt ,
Nếu con hướng về cõi địa ngục ,
Địa ngục liền mau tự tiêu tan .
Nếu con hướng về loài Ngạ -quỉ ,
Ngạ -quỉ liền được tự no đủ .
Nếu con hướng về chúng Tu-la .
Tu –la tâm ác tự điều phục .
Nếu con hướng về các Súc –sanh,
Súc-sanh tự được trí -huệ lớn.
Khi phát lời nguyện ấy xog, chí tâm xưng danh hiệu của tôi , lại nên chuyên niệm danh hiệu bổn –sư , tôi là đức A-Di-Đà Như –Lai (24), kế đó tiếp tụng đà –ra –ni thần chú này . Nếu chúng sanh nào trong một ngày đêm tụng năm biến chú , sẽ diệt trừ được tội nặng trong ngàn muôn ức kiếp sanh tử .
Quán -Thế -Âm Bồ -Tát lại bạch Phật: -Bạch đức Thế -Tôn! Nếu chúng sanh nào tụng –trì thần –chú Đại –bi, mà con` bị đọa vào ba đường ác , tôi thề không thành chánh –giác . Tụng trì thần –chú đại-bi, nếu không được sanh về các coĩ Phật , tôi thề không thành chánh giác . Tụng trì thần –chú đại –bi, nếu không được vô-lượng tam –muội biệt tài (25), tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì chú Đại –bi, tất cả mong cầu trong đời hiện tại , nếu không được vừa ý , thì chú này không được gọi là Đại –Bi –Tâm đà-ra-ni, duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành. Nếu các người nữ chán nghét thân nữ, muốn được thân nam, tụng trì thần –chú Đại-bi, như không thể chuyển nữ thành nam, tôi thề không thành chánh –giác . Như kẻ nào tụng trì chú này, nếu còn sanh chút lòng nghi, tất không được toại nguyện . Nếu chúng sanh nào xâm tổn tài -vật , thức ăn thức uống của thường –trụ (26) sẽ mang tội rất nặng . Do nghiệp ác ngăn che, giả sử ngàn đức Phật ra đời , cũng không được sám hối , dù cho sám hối cũng không trừ diệt . Nếu đã phạm tội ấy cần phải đối 10 phương đạo sư sám hối mới có thể tiêu trừ . Nay do tụng trì liền được trừ diệt . Tại sao thế ? Bởi khi tụng chú Đại –Bi –Tâm đà-ra-ni, mười phương đạo –sư đều đến vì làm chứng –minh , nên tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt . Chúng –sanh nào tụng chú này tất cả tội thập –ác ngũ -nghịch (27) báng pháp, báng người , phá giới , phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ (28) làm nhơ phạm -hạnh (29), bao nhiêu tội ác nghiệp nặng như thế đều được tiêu hết, duy trừ một việc: kẻ tụng đối với chú còn sanh lòng nghi , nếu có sanh tâm ấy, thì tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu , huống chi tội nặng? Nhưng tuy không tiêu diệt được tội nặng , cũng có thể làm nhân bồ -đề về kiếp xa sau .
Bạch đức Thế -Tôn! Nếu các hàng Trời, Người, tụng trì thần –chú Đại –Bi, thì không bị mười lăm việc chết xấu , sẽ được mười lăm chỗ sanh tốt.
Thế nào là mười lăm việc chết xấu ?
- 1. Không bị chết do đói khát khốn khổ .
- 2. Không bị chết do gông cùm đánh đập .
- 3. Không bị chết vì oan gia thù -địch .
- 4. Không bị chết giữa quân –trận chém giết nhau .
- 5. Không bị chết do cọp sói cùng ác – thú tàn hại .
- 6. Không bị chết bởi rắn rít độc cắn .
- 7. Không bị chết vì nước trôi lửa cháy .
- 8. Không bị chết bởi phạm nhằm thuốc độc .
- 9. Không bị chết do loài sâu trùng độc làm hại .
- 10. Không bị chết vì điên cuồng mê loạn .
- 11. Không bị chết do té cây, té xuống núi .
- 12. Không bị chết bởi người ác trù ếm .
- 13. Không bị chết bởi tà thần ác quỷ làm hại .
- 14. Không bị chết vì bịnh ác lâm thân .
- 15. Không bị chết vì phi mạng tự hại .
Tụng trì thần –chú Đại –bi , không bị mười lăm việc chết xấu như thế .
Sao gọi là mười lăm chỗ sanh tốt ?
- 1. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp đấng quốc vương hiền lành.
- 2. Tùy theo chỗ sanh, thường ở cõi nước an lành .
- 3. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp thời đại tốt .
- 4. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp bạn lành .
- 5. Tùy theo chỗ sanh, thân căn thường được đầy đủ .
- 6. Tùy theo chỗ sanh, đạo tâm thuần thục .
- 7. Tùy theo chỗ sanh, không phạm cấm giới .
- 8. Tùy theo chỗ sanh, vật dụng , thức ăn uống thường được đầy đủ .
- 9. Tùy theo chỗ sanh, thường được quyến thuộc hòa thuận , có ân nghĩa
- 10. Tùy theo chỗ sanh, thường được người cung kính giúp đỡ .
- 11. Tùy theo chỗ sanh, tiền của châu báu không bị kẻ khác cướp đoạt .
- 12. Tùy theo chỗ sanh, những việc mong cầu đều được toại nguyện .
- 13. Tùy theo chỗ sanh, long –thiên thiện -thần thường theo ủng hộ .
- 14. Tùy theo chỗ sanh, thường được thấy Phật nghe pháp .
- 15. Tùy theo chỗ sanh, khi nghe chánh –pháp ngộ giải nghĩa sâu .
Nếu kẻ nào trì tụng chú Đại –bi, sẽ được mười lăm chỗ sanh tốt như thế ! Cho nên tất cả hàng Trời , Người đều nên thường tụng trì , chớ sanh lòng biếng trễ .
Khi đức Quán -Thế -Âm Bồ -Tát nói lời ấy rồi , liền ở trước chúng hội , chắp tay đứng thẳng, đối với chúng sanh khởi lòng từ -bi , nở mặt mĩm cười nói chương cú mầu nhiệm :
Quảng -Đại Viên –Mãn Vô -Ngại Đại –Bi –Tâm đà –ra –ni rằng:
Nam mô hắc ra đác na da ra dạ da .
Nam mô a rị da bà lô kiết đế thước bát ra da, Bồ đề tát đỏa bà da
Ma ha tát đỏa bà da . Ma ha ca lô ni ca da . Án . Tát bàn ra phạt duệ .
Số đát na đát tỏa .Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da .
Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà . Nam mô na ra cẩn trì .
Hê rị ma ha bàn đa sa mế .Tát bà a tha đậu du bằng .
A thệ dựng .Tát bà tát đa , na ma bà tát đa, na ma bà dà .
Ma phạt đặc đậu . Đắc điệt tha .
Án! A bà lô hê . Lô ca đế . Ca la đế . Di hê rị . Ma ha bồ đề tát đỏa .
Tát bà tát bà . Ma ra ma ra . Ma hê ma hê rị đà dựng .
Cu lô cu lô yết mông . Độ lô độ lô phạt xà da đế .
Ma ha phạt xà da đế . Đà ra đà ra . Địa rị ni .
Thất Phật ra da . Giá ra giá ra . Mạ mạ phạt mạ ra .
Mục đế lệ . Y hê di hê . Thất na thất na . A ra sâm Phật ra xá lỵ
Phạt xa phạt xâm . Phật ra xá da . Hô lô hô lô ma ra .
Hô lô hô lô hê ri . Ta ra ta ra . Tất rị tất rị
Tô rô tô rô . Bồ đề dạ bồ đề dạ . Bồ đà dạ bồ đà dạ .
Di đế lỵ dạ . Na ra cẩn trì . Địa rị sắc ni na .
Bà dạ mạ ra . Ta bà ha . Tất đà dạ . Ta bà ha .
Ma ha tất đà dạ . Ta bà ha . Tất đà dũ nghệ . Thất bàn ra da . Ta bà ha .
Na ra cẩn trì . Ta bà ha . Ma ra na ra . Ta bà ha .
Tất ra tăng a mục khê dạ . Ta bà ha .
Ta bà ma ha a tất đà dạ . Ta bà ha .
Giã kiết ra a tất đà dạ . Ta bà ha .
Ba đà ma yết tất đà dạ . Ta bà ha
Na ra cẩn trì bàn đà ra da . Ta bà ha .
Ma bà lỵ thắng yết ra dạ , ta bà ha .
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da .
Nam mô a rị da, bà lô kiết đế , thước bàn ra dạ . Ta bà ha .
“Án tất điện đô , mạn đa ra , bạt đà dạ , ta bà ha “.
Bồ -Tát thuyết chú xong, cõi đất sáu phen biến động , trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác , mười phương chư Phật thảy đều vui mừng , thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc , tất cả chúng hội đều được quả chứng . Hoặc có vị chứng quả Tu – đà –hoàn , hoặc có vị chứng quả Tu –đà –hàm , hoặc có vị chứng quả A-na-hàm (30), hoặc có vị chứng quả A-la-hán, hoặc có vị chứng được Sơ-địa , Nhị -địa , Tam -địa , Tứ -địa , Ngũ -địa cho đến Thập -địa , Vô -lượng chúng sanh phát lòng bồ -đề .
Khi ấy Đại -Phạm thiên vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh , chắp tay cung kính bạch với đức Quán -Thế -Âm Bồ -Tát rằng : Lành thay đại sĩ ! Từ trước đến nay, tôi đã trải qua vô -lượng Phật hội, nghe nhiều pháp yếu , nhiều môn đà –ra –ni , song chưa từng nghe nói chương cú thần diệu : Vô -Ngại Đại –Bi –Tâm đà-ra-ni này . Cúi xin đại sĩ vì tôi , nói hình trạng tướng mạo của đà –ra –ni ấy . Tôi và đại chúng đều ưa thích muốn nghe .
Quán -Thế -Âm Bồ -Tát bảo Phạm –vương : Ông vì phương tiện lợi ích cho tất cả chúng sanh , nên hỏi như thế . Nay ông khéo nghe , tôi sẽ vì các ông mà nói lược qua .
-Này Phạm –vương ! Những tâm đại từ bi, tâm bình đẳng , tâm vô vi , tâm chẳng nhiễm trước , tâm không quán, tâm cung kính , tâm khiêm nhường , tâm không tạp loạn , tâm không chấp giữ , tâm vô thượng bồ -đề , nên bíết các thứtâm ấy đều là tướng mạo của môn đà –ra –ni này . Vậy ông nên y theo đó mà tu hành .
Phạm –vương thưa : -Tôi và đại chúng hôm nay mới hân hạnh được biết tướng mạo của môn đà –ra –ni nàỵ Từ nay chúng tôi xin thọ trì chẳng dám lãng quên .
Bồ -tát lại nói tiếp : Nếu kẻ thiện –nam , thiện -nữ nào tụng trì thần chú này, phải phát tâm bồ đề rộng lớn , thề độ tất cả muôn loài , giữ gìn trai giới , đối với chúng sanh khởi lòng bình đẳng , và thường nên trì tụng chớ cho gián đoạn . Lại nên ỡ nơi tịnh thất , tắm gội sạch sẽ , mặc y phục sạch treo phang đốt đèn , dùng hương hoa cùng các thức ăn uống để cúng dường , buộc tâm một chỗ chớ nghĩ chi khác , y như pháp mà tụng trì . Lúc ấy sẽ có Nhựt –Quang Bồ -Tát , Nguyệt –Quang Bồ -Tát , cùng vô lượng thần tiên đến chứng minh , giúp thêm sự hiệu nghiệm . Bấy giờ ta cũng dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay nâng đỡ , khiến cho kẻ ấy từ đó về sau có thể hiểu tất cả sách vỡ thế gian , thông đạt các điển tích Vi –Đà (31) và tất cả pháp thuật ngoại đạo . Chúng sanh nào tụng trì thần chú này , có thể trị lành tám muôn bốn ngàn thứ bịnh ở thế gian , hàng phục các thiên ma ngoại đạo , sai khiến được tất cả quỉ thần . Những kẻ tụng kinh tọa thiền ở nơi non sâu đồng vắng , bị sơn tinh , tạp mị , các quỉ vọng , lượng làm não loạn phá hại , khiến cho tâm không an định , chỉ cần tụng chú này một biến , các quỉ thần thảy đều bị trói . Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp , khởi lòng thương xót tất cả cho chúng sanh , lúc ấy ta sẻ sắc cho tất cả Thiện –thần , Long –vương , Kim –Cang , Mật –tích thường theo ủng hộ , không rời bên mình , như giữ gìn tròng con mắt hoặc thân mạng của chính họ .
Tiếp đó, Bồ -Tát liền đọc lời kệ sắc lệnh rằng :
- - Ta sai Mật –Tích , Kim –Cang sĩ (32)
- - Ô –Sô Quân -Đồ -Ương Châu –Thi (33)
- - Bát bộ lực sĩ , Thưởng-Ca-La (34)
- - Thường theo ủng hộ bên hành giả .
- - Ta sai Ma –Hê Na –La –Diên (35)
- - Kim -Tỳ -La –Đà – Ca -Tỳ -La (36)
- - Thường theo ủng hộ bên hành giả .
- - Ta sai Bà -Cấp –Ta –Lâu –La (37)
- - Mãn -Thiện –Xa –Bát –Chân –Đà –La (38)
- - Thường theo ủng hộ bên hành giả .
- - Ta sai Tát –Giá –Ma –Hòa –La (39)
- - Cưu –Lan –Đơn –Tra –Bán -Chỉ -La (40)
- - Thường theo ủng hộ bên hành giả .
- - Ta sai Tất –Bà –Dà –La –Vương (41)
- - Ủng -Đức -Tỳ -Đa –Tát –Hòa –La (42)
- - Thường theo ủng hộ bên hành giả .
- - Ta sai Phạm –Ma –Tam –Bát –La (43)
- - Ngũ -Bộ -Tịnh –Cư –Diêm –Ma –La (44)
- - Thường theo ủng hộ bên hành giả
- - Tai sai Thích –Vương , Tam -Thập –Tam (45)
- - Đại -Biện Công -Đức –Bà –Đát –Na (46)
- - Thường theo ủng hộ bên hành giả .
- - Tai sai Đề -Đầu –Lại –Tra –Vương
- - Các thần Mẫu -nữ, chúng Đại -lực (47)
- - Thường theo ủng hộ bên hành giả .
- - Tai sai Tỳ -Lâu -Lặc –Xoa –Vương (48)
- - Tỳ -Lâu –Bác –Xoa -Tỳ -Sa –Môn (49)
- - Thường theo ủng hộ bên hành giả .
- - Tai sai Kim -Sắc Khổng -Tước –Vương (50)
- - Hai mươi tám bộ đại tiên chúng
- - Thường theo ủng hộ bên hành giả .
- - Ta sai Ma – Ni -Bạt –Đà –La (51)
- - Táng Chi đại tướng , Phất La Bà (52)
- - Thường theo ủng hộ bên hành giả .
- - Ta sai Nan –Đà , Bạt –Nan –Đà (53)
- - Bà –Dà –La –Long , Y –Bát –La (54)
- - Thường theo ủng hỘ bên hành giả .
- - Ta sai Tu –La , Càn –Thát –Bà
- - Ca –Lâu , Khẩn –Na , Ma -Hầu –La .
- - Thường theo ủng hộ bên hành giả .
- - Ta sai Thủy , Hỏa , Lôi, Điễn thần
- - Cưu –Bàn Trà –Vương , Tỳ -Xá –Xà (55)
- - Thường theo ủng hộ bên hành giả .
Các vị thiện -thần này cùng thần Long –Vương , thần Mẫu -nữ đều có năm trăm đại lực Dạ -Xoa làm quyến thuộc , thường theo ủng hộ người thọ -trì thần – chú Đại –Bi .
Nếu người đó ở nơi núi hoang đồng vắng, ngủ nghĨ một mình , các vị thiện -thần ấy thay phiên nhau can giữ không cho tai –ương chướng -nạn xâm -phạm đến thân .
Nếu hành -gỉa đi trong núi sâu lạc mất đường về , tụng trì chú này , thiện -thần long –vương hóa làm người lành chỉ đường dẫn lối .
Như hành -giả trụ nơi núi rừng, đồng vắng , thiếu thốn nước lửa , long -thần vì ủng hộ , hóa ra nước lửa .
Đức Quán -Thế -Âm Bồ -Tát lại vì người tụng chú , nói bài kệ thanh lương tiêu -trừ tai họa rằng :
- - Hành giả đi trong đồng núi vắng ,
- - Gặp những cọp sói , các thú dữ ,
- - Rắn , rít , tinh , mị , quỉ vọng , lượng ,
- - Tụng tâm chú này khỏi bị hại
- - Nếu đi biển cả hoặc sông hồ ,
- - Những rồng rắn độc , loài Ma -Kiệt (56)
- - Dạ -Xoa , La –Sát , cá rùa lớn ,
- - Nghe tung chú này tự lánh xa ,
- - Nếu bị quân trận giặc bao vây ,
- - Hoặc gặp người ác đoạt tiền của ,
- - Chí thành xưng tụng chú Đại –Bi ,
- - Giặc cướp tự khởi lòng thương xót .
- - Nếu bị vua , quan , quân sĩ bắt ,
- - Gông cùm trói buộc giam ngục tù ,
- - Chí thành xưng tung chú Đại –Bi .
- - Vua , quan tự mở lòng ân –xá
- - Nếu đi vào nhà nuôi sâu độc ,
- - Uống ăn để thuốc muốn hại nhau ,
- - Chí thành xưng tung chú Đại –Bi ,
- - Thuốc độc biến thành nước Cam -Lộ .
- - Nữ nhơn bị nạn khi sanh sản .
- - Khổ vì ma quái làm ngăn cản ,
- - Chí thành xưng tụng chú Đại –Bi ,
- - Quỉ tà sợ trốn sanh an -ổn,
- - Gặp rồng , dịch quỉ gieo hơi độc ,
- - Nóng bức khổ đau sắp mạng chung ,
- - Chí thành xưng tụng chú Đại –Bi
- - Bịnh dịch tiêu trừ mạng trường -cữu .
- - Rồng quỉ lưu hành bịnh thủng độc ,
- - Ung –sang lỡ -lói nhiều khổ đau ,
- - Chí thành xưng tụng chú Đại –Bi ,
- - Khạc ra ba lần hơi độc mất .
- - Chúng sanh đời trược khởi lòng ác ,
- - Trù ếm hại cho thỏa oán –thù ,
- - Chí thành xưng tụng chú Đại –Bi,
- - Liền phản trở lại người trù ếm .
- - Chúng sanh cõi trược đời mạt pháp ,
- - Lửa dâm -dục thạnh , tâm điên đảo .
- - Ngoại tình , xa vợ , bỏ chồng con ,
- - Ngày đêm mãi tưởng điều sai quấy ,
- - Nếu nay xưng tụng chú Đại –Bi ,
- - Lửa dục tiêu trừ , tâm tà dứt ,
- - Công lực Đại –Bi chỉ lược qua ,
- - Nếu ta nói hết không cùng kiếp !
Khi ấy Quán -Thế -Âm –Tát lại bảo Phạm –vương rằng :
-Này Phạm –vương ! Nếu có chúng sanh nào muốn tiêu trừ tai nạn ma chướng nên lấy chỉ ngũ sắc se làm một sợi dây niệt , trước tiên tụng chú này năm biến , kế tụng hai mươi mốt biến , cứ tụng xong mỗi biến lại thắt một gút, rồi đeo nơi cổ hoa*.c bỏ nơi đãi để trong thân . Tầm –chú Đại –Bi này do chín mươi chín ức hằng hà sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra . Các đức Phật ấy vì thương xót muốn cho người tu hành : công -đức lục -độ chưa đầy đủ , mau được đầy đủ , mầm bồ -đề chưa phát , mau được phát sanh ; hàng Thanh –văn chưa chứng quả , mau được chứng quả ; các vị thần tiên trong cõi đại –thiên chưa phát lòng bồ -đề , mau được phát tâm vô -thượng bồ -đề ; Nếu chúng sanh nào chưa được tín –căn đại -thừa , do sức oai thần của đà – ra –ni này , hột giống đại -thừa tự sanh mầm và tăng trưởng , lại do sức từ -bi phương tiện của ta , khiến cho sự mong cầu của họ đều được thành tựu .
-Lại nữa , trong tam –thiên đại –thiên thế giới , những chúng sanh nơi ba đường ác , ở chỗ sâu kín tối tăm , nghe thần –chú của ta đây đều được lìa khổ . Các vị Bồ -tát chưa lên bậc sơ -trụ , mau được siêu lên , cho đến mau chứng ngôi thập -trụ , mau đến quả vị Phật , thành -tựu ba mươi hai tướng tốt , tám mươi vẻ đẹp tuỳ hình . Nếu hàng Thanh –văn một phen được nghe qua chú này , hoặc biên chép , tu hành môn đà –ra –ni đây , dùng tâm chất trực như pháp mà trụ , thì bốn quả Sa –môn không cầu tự được . Công -lực của tần chú này có thể khiến cho nước sông hồ , biển cả trong cõi đại –thiên dâng trào , vách đá , núi nhỏ , núi Thiết –vi và Tu –di thảy đều rung động , lại có thể làm cho tan nát như bụi nhỏ , những chúng sanh ở trong ấy đều phát tâm bồ-đề .
Nếu chúng sanh nào , trong đời hiện tại muốn mong cầu việc chi , nên giữ trai -giới nghiêm sạch tron ghai mươi mốt ngày, và tụng trì chú Đại –bi , tất cả đều được toại nguyện . Nếu thường chí –tâm trì tụng , thì từ kiếp sống chết này đến kiếp sống chết khác , tất cả nghiệp ác đều mau tiêu diệt , tất cả chư Phật , Bồ -tát , Phạm –thiên , Đế -Thích , Thứ -thiên –vương , Thần , Tiên , Long vương thảy đều chứng bíết cho . Hàng trời , Người nào thường thọ -trì tâm – chú này , như tắm gội trong sông , hồ , biển cả , nếu những chúng sanh ở trong đó được nước tắm gội của kẻ ấy dính vào thân , thì bao nhiêu nghiệp nặng tội ác thảy đều tiêu diệt , liền được siêu về tha phương tịnh -độ , hóa sanh nơi hoa sen , không còn thọ thân thai , noãn , thấp nữa . Các chúng sanh ấy chỉ nhờ chút ảnh hưởng mà còn được như thế , huống chi là chính người trì tụng . Và , như người tụng chú đi nơi đường , có ngọn gió thổi qua mình , nếu những chúng sanh ở sau được gió của kẻ ấy lướt qua y - phục , thân - thể, thì tất cả nghiệp ác , chướng nặng thảy đều tiêu diệt , không còn đọa vào tam đồ , thường sanh ở trước chư Phật . Cho nên phải biết quả báo phước đức của người trì chú thật không thể nghĩ bàn !
Lại nữa , người trì tụng đà –ra –ni này , khi thốt ra lời nói chi , hoặc thiện hoặc ác, tất cả thiên ma , ngoại đạo , thiên , long , quỉ , thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh -tịnh , đối với kẻ ấy khởi lòng cung kính , tôn trọng như Phật .
Người nào trì tụng đà –ra –ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật –thân , vì chín mươi chín ức hằng –hà –sà chư Phật đều yêu quí . Nên biết người ấy chính là tạng quang –minh , vì ánh sáng của tất cả Như –Lai đều chiếu đến ni mình . Nên biết người ấy chính là tạng từ -bi, vì thường dùng đà –ra –ni cứu ođ^. chúng sanh . Nên biết người ấy chính là tạng diệu –pháp , vì nhiếp hết ất cả các môn đà – ra – ni . Nên biết người ấy chính là tạng thiền -định, vì trăm ngàn tam -muội thảy đều hiện tiền . Nên biết người ấy chính là tạng thiền -định, vì trăm ngàn tam -muội thảy đều hiện tiền . Nên biết người ấy chính là tạng hư-không , vì hằng dùng không -huệ , quán –sát chúng sanh . Nên biết người ấy là tạng vô –úy , vì thiên , long , thiện , thần , thường theo hộ -trì . Nên biết người ấy chính là tạng diệu -ngữ , vì tiếng đà –ra –ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt . Nên biết người ấy chính là tạng thường -trụ , vì tam –tai ác -kiếp không thể làm hoại . Nên biết người ấy chính là tạng giải –thoát , vì thiên –ma ngoại đạo không thể bức não . Nên biết người ấy chính là tạng dược –vương , vì thường dùng đà –ra –ni trị bịnh chúng sanh . Nên biết người ấy chính là tạng thần –thông , vì được tự -tại dạo chơi mười phương cõi Phật . Công đức người ấy khen ngợi không thể cùng !
Đức Phật bảo Phạm –vương :
- Này thiện nam tử ! Nếu kẻ nào chán sự khổ ở thế gian, muốn cầu thuốc trường –sanh , thì nên an trụ nơi chỗ vắng lặng sạch sẽ , kiết giới thanh tịnh và thật hành một trong các phương pháp như sau : hoặc tụng chú vào áo mà mặc , hoặc tụng chú vào nước uống , thức ăn , chất thơm , dược phẩm mà dùng , nên nhớ mỗi thứ đều tụng 108 biến , tất sẽ được sống lâu . Nếu có thể kiết giới đều thành tựu .
Phép kiết giới như thế nào ? - Hoặc tụng chú vào lưỡi dao sạch , rạch đất xung quanh làm giới hạn . Hoặc tụng chú vào nước sạch , rảy bốn phương làm giới hạn . Hoặc tụng chú vào hột cải trắng , liệng ra bốn phía làm giới hạn , hay dùng tâm tưởng đến chỗ nào thì chỗ đó là giới hạn . Hoặc tụng chú vào chỉ ngũ sắc treo vây bốn bên làm giới hạn . Mấy phương pháp trên đây dùng cách nào cũng được , nên nhớ mỗi thứ đều phải tụng cho đủ 21 biến . Nếu tụng trì đúng pháp , tự nhiên sẽ được hiệu quả .
- Này thiện –nam tử ! Chúng sanh nào nghe danh -tự của môn đà –ra –ni này còn được tiêu diệt tội nặng sanh tử trong vô -lượng kiếp huống chi là tụng trì? Nếu người nào được thần chú này mà tụng trì , phải biết kẻ ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật , gieo nhiều căn lành . Nếu kẻ nào tụng trì đúng pháp , lại có thể vì chúng sanh dứt trừ sự khổ nạn, nên biết người ấy là bậc có đủ tâm đại –bi , không bao lâu nữa sẽ thành Phật . Cho nên hành -giả khi thấy mọi loài , đều nên vì chúng tụng chú này , khiến cho chúng được nghe để cùng gây nhân bồ đề , thì sẽ được vô -lượng vô –biên công đức .
Nếu kẻ hành trì khéo giữ gìn trai giới dụng tâm tinh thần , vì tất cả chúng sanh sám hối tội nghiệp đời trươ”c , tự mình cũng sám hối những ác nghiệp đ gây ra từ vô -lượng kiếp đến nay, nơi miệng rành rẽ tụng đà –ra –ni nầy tiếng tăm liên tiếp không dứt , thì trong đời hiện tại liền chứng được bốn quả của ậc sa môn . Nếu là hạng lợi căn có phương tiện huệ quán , thì quả vị thập địa còn chứng được không lấy gì làm khó , huống chi là những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian . Những việc như thế , nếu có mong cầu , đều được toại nguyện .
- Này thiện –nam tử ! Nếu người nào muốn sai khiến quỉ thì tìm một chiếc xương sọ của kẻ qua đời , đem về rửa sạch . Kế đó lập đàn – tràng , để chiếc xương ấy trước tượng Thiên- Nhãn , chí tâm tụng chú, mỗi ngày đều dùng hương hoa cùng các thứ uống ăn cúng tế vong linh . Đúng bảy ngày như thế , quỉ sẽ hiện thân , tùy theo mạng lịnh của người ấy sai bảo .
Như hành – nhơn muốn sai khiến Tứ -thiên –vương, thì tụng chú này vào gỗ đàn –hương rồi đốt lên , tất sẽ thấy hiệu quả . Sở dĩ được như thế , là do nguyện -lực đại –bi của Quán –Âm Bồ -Tát sâu nặng, lại cũng do oai thần rộng lớn của đà –ra –ni này .
Đức Phật lại gọi ngài A – nan mà bảo :
- Này A – nan ! Khi trong một nước có tai nạn nổi lên , nếu muốn được an ổn, vị quốc vương xứ ấy phải biết dùng chánh pháp trị dân , có độ lượng khoan hồng không làm oan uổng trăm họ , tha kẻ tù phạm , và giữ thân tâm tinh - tấn đọc tụng chú này . Hành trì như thế luôn bảy ngày đêm , thì trong cõi nước ấy tất cả tai nạn thảy đều tiêu tan , ngũ cốc phong thạnh , dân chúng được an vui .
Lại trong một xứ , nếu gặp những tai ương dồn dập như : bị nước nghịch đem binh xâm lấn , dân tình rối loạn không yên , quan đại -thần mưu phản , bịnh dịch lưu hành , mưa nắng trái thời hoặc nhựt nguyệt sai độ . . . Muốn diệt trừ các thứ tai nạn ấy , vị quốc vương phải lập đàn tràng , tạo tượng Thiên –Nhãn Đại –Bi để day mặt về phương Tây , sắm các thứ hương hoa , tràng phang , bảo cái hoặc trăm thức ăn uống mà cúng dường , rồi dùng thân tâm tinh tấn tụng đọc chương –cú thần diệu . Hành trì như thế đúng bảy ngày thì nước giặc qui – hàng , chánh tỉnh yên ổn , lân bang hòa -hảo thương mến lẫn nhau , trong triều từ vương -tử cho đến trăm quan đều hết dạ trung thành , nơi cung vi phi - tần thế - nữ khởi lòng hiếu –kính đối với vua , các thiên long , quỉ thần đều ủng hộ trong nước khiến cho mưa gió thuận mùa , hoa quả tốt , nhân dân vui đẹp .
Lại nếu trong nhà có những tai nạn như : ma quaí nổi dậy , quyến thuộc đau nặng , tiền của hao mòn , gia đình rối loạn , người ác gieo tiếng thị - phi hoặc vu -khống để hãm hại , cho đến trong ngoài lớn nhỏ chẳng hòa thuận nhau . Muốn diệt những tai nạn ấy , gia -chủ phải lập đàn – tràng , hướng về tượng Thiên –Nhãn , chí tâm niệm danh hiệu Quán - Thế -Âm Bồ -Tát và tụng đà –ra –ni này đủ ngàn biến , thì tất cả việc xấu như trên thảy đều tiêu diệt , gia đình được vĩnh viễn an vui .
Ngài A –nan bạch Phật rằng : - Bạch đức Thế -Tôn ! Chú này tên gọi là chi ? Con nên thọ trì như thế nào ?
Đức Phật bảo : -Thần chú này có những tên như sau :
- 1. Quảng -Đại Viên –Mãn đà –ra –ni !
- 2. Vô -Ngại Đại –Bi đà –ra –ni !
- 3. Cứu -Khổ đà –ra –ni !
- 4. Diên -Thọ đà –ra –ni !
- 5. Diệt Ấc –Thú đà –ra –ni !
- 6. Phá Ác -Nghiệp -Chướng đà –ra –ni !
- 7. Mãn –Nguyện đà –ra –ni !
- 8. Tùy –Tâm Tự -Tại đà –ra –ni !
- 9. Tốc –Siêu Thánh -Địa đà –ra –ni !
Ông nên y như thế mà thọ trì .
Ngài A –nan lại bạch Phật : - Bẩm đức Thế Tôn ! Vị Bồ -tát Ma –ha –tát , bộ chủ của thần chú này , tôn hiệu là chi , mà khéo nói môn đà – ra –ni như thế ? Đức Phật bảo : - Vị Bồ -tát ấy hiệu là Quán -Thế -Âm Tự -Tại , cũng tên là Nhiên –Sách , cũng gọi là Thiên –Quan –Nhãn .
- Này thiện –nam tử ! Quán -Thế -Âm Bồ -Tát thần thông oai lực không thể nghĩ bàn , trong vô –lượng kiếp về trước đã từng thành Phật hiệu là Chánh –Pháp –Minh Như -Laị Vì nguyện -lực đại-bi , vì muốn làm duyên phát -khởi cho tất cả hàng Bồ -tát , vì muốn an vui thành thục cho chúng sanh, ngài mới giáng –tích hiện làm Bồ -tát . Vậy ông và đại chúng các hàng Bồ -tát Ma –ha –tát , Phạm –vương , Đế -Thích , Long -thần đều nên cung kính , chớ sanh lòng khinh mạn xem thường . Nếu tất cả hàng Trời, Người thường xưng niệm, cúng dường Quán -Thế -Âm Bồ -Tát , sẽ được vô lượng phước , diệt vô lượng tội , khi mạng chúng sanh về cõi nước của Phật A-Di-Đà .
Đức Phật bảo Ngài A –nan : - Thần chú của Quán -Thế -Âm Bồ -Tát nói ra đây , chân thật không dối . Nếu muống chỉnh Bồ -tát đến , nên tụng chú vào hương Chuyết cụ la hai mươi mốt lần rồi đốt lên . Quán -Thế -Âm Bồ -tát liền đến ! (Chuyết cụ la hương tức là An tức hương ).
- Nếu có kẻ nào bị loài ma mèo dựa vào phá khuấy, người thân thuộc nên tim` một bộ xương sọ của con mèo đã chết đốt tan ra tro , rồi hòa tan với đất bùn sạch nắn thành hình mèo . Khi hoàn thành để hình ấy trước tượng Thiên –Nhãn , tụng 108 biến chú Đại –Bi vào lưỡi dao rồi chặt hình mèo thành 108 đoạn . Ne6n nhớ cứ mỗi lần tụng xong một biến chú thì chém xuốn một dao ... kêu tên loài ma mèo một lần . Làm như thế bịnh nhơn sẽ an lành ma mèo vĩnh viễn không dám phá hại .
- Nếu người nào bị chất độc của loài sâu cỏ làm hại , thì thân nhơn mau dùng hương Dược kiếp bố la hòa đồng phân với hương Chuyết cụ lạ vào nước trong , sắc còn một chén . Xong , lạ để chén thuỐc ấy trước tượng Thiên – Nhãn tụng chú 108 biến rồi cho bịnh nhơn uống , liền thấy an lành (Dược kiếp bố la hương tức là Long não hương ).
- Nếu bị rắn rít cắn , dùng vị Càn cương tán mạt , tụng chú vào đây 21 biến , rồi đắp lên vết thương , liền hết .
- Nếu bị kẻ thù mưu hại , nên dùng đất sạch , hoặc bột , hoặc sáp năn thành hình kẻ ấy . Xong , lại để hình nhơn trước tượng Thiên –Nhãn , tụng vào luỡi dao 108 biến Đại –Bi , cứ tụng xong mỗi biến chú lại chém xuống một dao , kêu tên người kia một lần rồi đem 108 đoạn hình đã chặt đốt tan . Y theo pháp -thức như thế , kẻ oan gia thù nghịch sẻ đổi ra trạng thái vui vẻ thân -hậu đối với ta , trọn đời đôi bên quí mên lẫn nhau .
- Nếu bị bịnh đau mắt , hoặc mắt kéo màng đỏ , mắt trắng đục , hoặc hư tròng , không thấy được ánh sáng , nên dùng trái Ha –lê -lặc , trái Am –ma –lặc , mỗi thứ một quả đem nghiền , vắt lấy nước . Khi vắt nước nên ở chỗ vắng lặng , giữ cho sạch sẽ , miệng luôn niệm Phật , chớ cho mèo chó gà lợn cùng đàn bà mới sanh thấy . Vắt nước xong đem hòa với bạch -mật hoặc sữa người . Sữa này phải là sữa phụ nhơn sanh con trai chớ không được dùng sũa của người sanh con gái . Khi hòa thành xong , đem chén thuốc ấy để trước tượng Thiên –Nhãn tụng chú 108 biến . Trì chú vào thuốc rồi , bịnh nhơn phải ở nơi nhà kín , tránh gió tron gthời gian bảy ngày và dùng thuốc ấy nhỏ vào mắt . Làm như thế , tròng con mắt hư lại sanh , c’ac chứng kia đều lành , mắt thấy tỏ rõ . (Ba thứ trái này xứ ta không có , bịnh nhơn nên phương tiện thay vào ba thứ trái hoặc ba thứ thuốc khác có tánh cách trị đau mắt , nếu như chí thành , cũng được linh nghiệm )
- Nếu bị bịnh rét hoặc bị loài ma rét dựa , nên dùng da cọp hoa*.c da beo tụng vào đấy 21 biến chú rồi phủ lên mình thì bịnh sẽ lành , ma cũng xa lánh . Như được da sư tử lại càng quí .
- Nếu bị rắn độc cắn, dùng chất ráy đóng trong lỗ tai của người bị cắn , tụng chú 21 biến , thoa vào vết thương , nọc rắn liền tiêu .
- Nếu bị bịnh rét dữ nhập tâm , hôn muội sắp chết , dùng một khối mủ câ đào ước lượng bằng trái đào , đem hòa với một chén nước trong sắc còn nửa chén , tụng chú vào đấy bảy biến rồi uống , bịnh sẽ lành . Thuốc này chớ cho phụ nữ sắc .
- Nếu bị loài quỉ truyền thi , phục thi làm bịnh , dùng hương Chuyết cụ la , tụng chú 21 biến , đốt xông vào lỗ mũi , lại lấy bảy khối hương lớn ước bằng lóng tay cái , cũng gia trì chú 21 biến mà uống , bịnh sẽ lành . Nên nhớ : bịnh nhơn phải kiên rượu , thịt , ngũ vị tân (58) và mắng chưởi . Một phương pháp nữa là dùng vị Ma na thỉ la hòa với Bạch giới tử và muối hột , gia trì chú 21 biến , rồi đem xông đốt dưới giường người bịnh , quỉ liền vội vã trốn chạy không dám ở . ( ma na thỉ la là vị thuốc Hùng hoàng )
- Nếu bị tai điếc lùng bùng , tụng chú vào dầu mè , rồi nhỏ trong tai , bịnh sẽ lành .
- Nếu bị chứng thiên phong sụi nửa thân mình , tai điếc mũi không biết mùi , dùng dầu mè sắc với vị Thanh mộc hương , gia trì chú 21 biến rồi thoa nơi mình , bịnh sẽ vĩNh viễn tiêu trừ . Lại một phương pháp : dùng sữa ngưu –tô thuần chất , tụng vào 21 biến chú mà thoa , bịnh cũng lành .
- Nếu phụ nhơn có nghén , thai nhi chết trong bụng , dùng một lượng thuốc A – ba -mộc -lợi –dà , đổ hai chén sắc còn một chén , gia trì chú 21 biến mà uống , thì cái thai liền ra , phụ nhơn không một chút đau đớn . Như thai –y (nhau ) không ra , cũng uống thuốc này . (A –ba -mộc lợi –dà là vị Ngưu -tất )
-Nếu bỗng nhiên đau nhói nơi tim chịu không kham , đây gọi là chứng độn –thi –chú, nên dùng hương Quân -trụ -lỗ , tụng chú vào 21 biến , rồi để trong miệng nhai nuốt không hạn nhiều ít , chừng nào mửa được mới thôi . Y như thế bịnh sẽ lành , xong nên nhớ phải cử ngũ -vị -tân và rượu thịt . (Quân -trụ -lỗ là vị thuốc Huân -lục –hương ) .
- Nếu bị phỏng lửa thành ghẻ , dùng phẩn trâu đen tụng chú 21 biến mà thoa , bịnh sẽ lành .
- Nếu bị sên lãI ca*’n , dùng nửa chén nước tiểu con ngựa kim , như bịnh nặng thì một chén , gia trì chú 21 biến uống vào , loài trùng này sẽ quyện ra như sợi dây .
- Nếu bị bịnh ghẻ đinh , dùng lá lăng –tiêu đâm lấy nước gia trì chú 21 biến mà thoa , thì ghẻ liền ra cồi rồi lành .
- Nếu rủi bị con lằn cắn vào mắt , dùng phẩn mới của con lừa , lược vắt lấy nước , gia trì chú 21 biến , đợi ban đêm trước khi đi ngủ , nhỏ thuốc ấy vào , bịnh sẽ lành .
- Nếu bị đau bụng , dùng nước giếng trong nấu với 21 hột muối lớn , còn nửa chén gia trì chú 21 biến , uống vào liền hết đau .
- Nếu bị bịnh đau mắt đỏ , mắt lồi thịt , mờ mịt không thấy , dùng lá Xa – xa –di đâm lược lâ’y nước , gia trì chú 21 biến , rồi bỏ đồng tiền có meo xanh vào ngâm một đêm . Xong lại lấy ra , tụng thêm vào đấy bảy biến chú nữa . Dùng thuốc này nhỏ vào mắt , bịnh sẽ lành . ( Lá Xa – xa –di là lá Câu -kỷ )
- Nếu người có tật ban đêm sợ hãi ra vào không yên lấy chỉ trắng xe thành niệt , gia trì chú 21 biến, kết thành 2i gút buộc nơi cổ , thì tật ấy sẽ dứt . Chẳng những trừ được sự khủng bố mà còn diệt được tội .
- Nếu trong nhà sanh nhiều tai nạn , dùng nhánh cây thạch lựu chặt thành 1080 đoạn ước độ một tấc , mỗi đoạn hai đầu đều thoa mật tô - lạc . Kế đó đem lò nhỏ để trước bàn Phật , cứ tụng xong mỗi bíến chú liền đốt một đoạn. Khi thiêu hết 1080 đoạn , tất cả tai nạn thảy đều tiêu trừ .
- Nếu ở các nơi đấu tranh , luận nghị , muốn được hơn người , dùng cành Bạch –xương -bồ gia trì 21 biến , đeo nơi cánh tay mặt tất sẽ được toại nguyện .
- Nếu muốn được trí huệ , nên dùng nhánh Xa – xa –di chặt thành 1080 đoạn, mỗI đoạn hai đầu thoa sữa ngưa –tô thuần chất và sữa ngưa –tô hòa với bạch -mật , cứ mỗI lần tụng chú lại đốt một đoạn . Nên nhớ trong một ngày đêm chia ra ba thời , mỗI thời tụng chú và đốt 1080 đoạn . Thực hành đúng bảy ngày , chú –sư sẽ được trí huệ thông ngộ ( Mỗi thời tụng 1080 bíến tất là người tụng quá nhuần và có định tâm nhiều )
- Nếu muốn hàng phục đại -lực quỉ thần , dùng củi cây A -rị -sắc –ca , thoa sữa tô -lạc và mật vào , đem trước tượng Đại –Bi gia trì chú 49 biến , rồi đốt trong lửa . (A -rị -sắc –ca dịch là Mộc -hoạn -tử , cũng gọi là vô –hoan -tử , một thứ cây có năng lực trừ tà , hạt của trái cây này có thể xỏ làm hạt chuỗi )
- Nếu lấy một lượng Hồ -lô –giá –na , đem đựng trong bình lưu –ly , để trước tượng Đại –Bi tụng chú 108 biến , rồi dùng thuốc ấy thoa trên trán và nơi thân , thì tất cả Thiên , Long , Quỉ , Thần , Người cùng loài Phi –nhơn trông thấy đều hoan hỉ ( Hồ -lô – giá –na là vị Ngưu –hoàng )
- Nếu thân bị xiềng xích , dùng phẩn của con bồ câu trắng , gia trì chú 108 biến , tụng xong đem thoa vào tay chà lên gông xiềng , gông xiềng sẽ tự sút .
- Nếu vợ chồng bất hòa , trạng như nước lửa , dùng lông đuôi chim oan –ương đem trước tượng Đại –Bi tụng chú 1080 biến rồi đeo trong mình , tất vợ chồng trọn đời vui hòa thương yêu nhau .
- Nếu lúa mạ hoặc các thứ trái cây bị sâu bọ cắn , dùng tro và cát sạch hòa với nước trong , gia trì chú 21 biến , rảy trên cây , trên mạ cùng bốn bên bờ ruộng , thì sâu bọ không dám phá hại .
Đức Phật lạ bảo Ngài A – nan : - Quán -Thế -Âm -Tự -Tại Bồ -Tát có ngàn tay , mỗi tay đều tiên biểu cho hạnh tùy thuận và các sự mong cầu của chúng sanh . Đó cũng do tâm đại –bi của vị đại sĩ hóa hiện .
( P . C . : Những chân –ngôn sau đây , chỗ có ngang dài là chỮ đọc kéo hơi dài ra , chỗ có ngang ngắn là hai chữ đọc hiệp lại làm một . Muốn cầu điều gì , đọc chân –ngôn theo điều ấy )
1. Nếu chúng sanh nào muốn được giàu lớn , co nhiều thứ châu báu đồ dùng , nên cầu nơi tay cầm châu như –ý :
Chân –ngôn rằng : ÁN --- , PHẠ NHỰT RA , PHẠ ĐA RA , HỒNG PHẤN TRA .
2. Nếu muốn trị các thứ bịnh trên thân , nên cầu nơi tay cầm cành dương liễu .
Chân –ngôn rằng : ÁN ---, TÔ TẤT ĐỊA , CA RỊ PHẠ RỊ , ĐA NÁM ĐA . MỤC ĐA DUỆ , PHẠ NHỰT RA , PHẠ NHỰT RA BẠN DÀ , HẠ NẴNG HẠ NẴNG , HỒNG PHẤN TRA .
3. Nếu muốn trị các chứng bịnh trong bụng , nên cầu nơi tay cầm cái bát báu .
Chân ngôn -rằng : ÁN ---, CHỈ RỊ CHỈ RỊ , PHẠ NHỰT _RA , HỒNG PHẤN TRA .
4. Nếu muốn trị bịnh mắt mờ không thấy ánh sáng nên cầu nơi tay cầm châu -nhựt –tinh –ma -ni .
Chân ngôn -rằng : ÁN ---, ĐỘ TÌ , CA GIÃ ĐỘ TÌ , BÁT RA PHẠ RỊ NÃNH , TÁT _PHẠ HẠ .
- 5. Nếu muốn hàng phục tất cả thiên-ma-thần , nên cầu nơi tay cầm cây bạt-chiết-la (59)
Chân ngôn rằng : ÁN ---, NẺ BỆ NẺ BỆ , NÉ BÀ DÃ , MA HA THẤT RỊ DUỆ , TÁT _PHẠT HẠ .
6. Nếu muốn hàng phục tất cả oán giặc , nên cầu nơi tay cầm chày kim –cang .
Chân ngôn rằng : ÁN --- , PHẠ NHỰT RA CHÍNẢNH , BÁT_RA NẺ BÁT DA DÃ , TÁT_PHẠ HẠ .
7. Nếu muốn trừ tách ở tất cả chỗ sợ hãi không yên , nên cầu nơi tay thí vô –úy .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, PHẠ NHỰT_RA NẴNG DÃ , HỒNG PHẤN TRA
8. Nếu bị các việc khuấy rối , muốn được an ổn , nên cầu nơi tay cầm dây quyên –sách .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, CHỈ RỊ LÃ RA , MÔ NẠI RA , HỒNG PHẤN TRA .
9. Nếu bị bịnh nhiệt độc , muốn được mát mẻ hết bịnh nên cầu nơi tay cầm châu nguyệt –tinh –ma –ni .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, TÔ TẤT ĐỊA YẾT _RỊ , TÁT _PHẠ HẠ .
10. Nếu muốn được làm quan , lên chức , nên cầu nơi tay cầm cung báu.
Chân ngôn rằng : ÁN ---, A TẢ VĨ , LỆ , TÁT _PHẠ HẠ .
11. Nếu muốn được mau gặp các bạn lành , nên cầu nơi tay cầm tên báu.
Chân ngôn rằng : ÁN ---, CA MẠ LÃ , TÁT_PHẠ HẠ .
12. Nếu muốn hàng phục các quỉ , thần , vọng , lượng , nên cầu nơi tay cầm gươm báu .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, ĐẾ THẾ ĐẾ NHÃ , ĐỐ VĨ NẢNH , ĐỐ ĐÊ BÀ ĐÀ DÃ HỒNG PHẤN TRA .
13. Nếu muốn trừ những chướng nạn ác bên thên , nên cầu nơi tay cầm cây phất trắng .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, BÁT NA DI NẢNH , BÀ NGA PHẠ ĐẾ , MÔ HẠ DÃ NHÁ , NGA MÔ HẠ NẢNH , TÁT _PHẠ HẠ .
14. Nếu muốn tất cả người trong quyến thuộc được hòa thuận nhau , nên cầu nơi tay cầm cái hồ -bình .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, YẾT LỆ , THÂM MÃN DIỆM , TÁT _PHẠ HẠ .
15. Nếu muốn xua đuổi bổ báo sài lang và tất cả ác thú , nên cầu nơi tay cầm cái bàn –bài .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, DƯỢC CÁT SAM NẲNG , NA DÃ CHIẾN NẠI _RA , ĐẠT NẬU BÁ RỊ _DÃ , BẠT XÁ BẠT XÁ , TÁT _PHẠ HẠ .
16. Nếu muốn trong tất cả thời , tất cả chỗ , lìa nạn quan quân vời bắt , nên cầu nơi tay cầm cây phủ -việt .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, VỊ RA DÃ , VỊ RA DA , TÁT _ PHẠ HẠ .
17. Nếu muốn có tôi trai tớ gái để sai khiến , nên cầu nơi tay cầm chiếc vòng ngọc.
Chân ngôn rằng : ÁN ---, BÁT NA HÀM VỊ RA DÃ , TÁT PHẠ HẠ .
18. Nếu muốn được các thứ công đức , nên cầu nơi tay cầm hoa sen trắng .
Chân ngôn rằng : ÁN --- , PHẠ NHỰT_RA , VỊ RA DẢ , TÁT_PHẠ HẠ .
19. Nếu muốn được sanh về mười phương tịnh độ , nên cầu nơi tay cầm hoa sen xanh .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, CHỈ RỊ CHỈ RỊ , PHẠ NHỰT_RA , BỘ RA BẠN ĐÀ , HỒNG PHẤN TRA .
20. Nếu muốn được bố trí huệ lớn , nên cầu nơi tay cầm cái gương báu.
Chân ngôn rằng : ÁN ---, VĨ TÁT PHỔ RA , NA RA CÁC XOA , PHẠ NHỰT RA , MẠN TRÀ LÁ , HỒNG PHẤN TRA
21. Nếu muốn được diện -kiến mười phương tất cả chư Phật , nên cầu nơi tay cầm hoa sen tím .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, TÁT RA TÁT RA , PHẠ NHỰT RA , HỒNG PHẤN TRA .
22. Nếu muốn lấy được kho báu ẩn trong lòng đất nên cầu nơi tay cầm cái bảo kíp .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, PHẠ NHỰT_RA , BÁ THIẾT CA RỊ , YẾT NẲNG HÀM , RA HỒNG .
23. Nếu muốn được đạo tiên , nên cầu nơi tay hoá hiện mây ngũ sắc .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, PHẠ NHỰT_RA, CA RỊ RA TRA HÀM TRA .
24. Nếu muốn sanh lên cõI Phạm –thiên , nên cầu nơi tay cầm bình quân-trì (60)
Chân ngôn rằng : ÁN ---, PHẠ NHỰT_RA THẾ KHÊ RA , RÔ TRA HÀM TRA .
25. Nếu muốn được sanh lên các cung trời , nên cầu nơi tay cầm hoa sen hồng .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, THƯƠNG YẾT LỆ , TÁT _PHẠ HẠ .
26. Nếu muốn xua đuổi giặc nghịch ở phương khác đến , nên cầu nơi tay cầm cây bảo –kích .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, THẢM MUỘI DÃ , CHỈ NÃNH HẠ RỊ , HỒNG PHẤN TRA .
27. Nếu muớn triệu tất cả chư thiên thiện thần , nên cầu nơi tay cầm ống loa báu .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, THƯƠNG YẾT_LỆ , MẠ HẠ THÂM MÃN DIỆM , TÁT PHẠ HẠ .
28. Nếu muớn sai khiến tất cả quỷ thần , nên cầu nơi tay cầm cây gậy đầu lâu .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, ĐỘ NẲNG , PHẠ NHỰT_RA XÁ .
29. Nếu muốn mười phương chu Phật sớm đến đưa tay tiếp dẫn , nên cầu nơi tay cầm xâu chuỗI ngọc .
Chân ngôn rằng : NẲNG MỒ _RA ĐÁT NẲNG , ĐÁT RA RẠ DÃ . ÁN ---, A NA BÀ ĐẾ VĨ NHÁ DUỆ , TẤT ĐỊA TẤT ĐÀ LẬT THẾ , TÁT _PHẠ HẠ .
30. Nếu muốn có được tất cả phạm –âm thanh tốt nhiệm mầu , nên cầu nơi tay cầm chiếc linh báu .
Chân ngôn rằng : NẲNG MỒ_BÁT NA HÀM BÁ NOA DUỆ . ÁN ---, A MẬT LẬT ĐÀM , NGHIÊM BỆ THẤT RỊ DUỆ, THẤT RỊ NẢNH , TÁT _PHẠ HẠ .
31. Nếu muốn được miệng noí biện luận hay khéo , nên cầu nơi tay cầm chiếc ấn báu .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, PHẠ NHỰT RA , NẢNH ĐÂM NHÁ DUỆ , TÁT _PHẠ HẠ .
32. Nếu muốn được thiên thần , long vương thường đến ủng hộ , nên cầu nơi tay cầm cu-thi thiết-câu .
Chân ngo^n rằng : ÁN ---, A RÔ RÔ , ĐA RA CA RA , VÌ SA DUỆ NẲNG MỒ_TÁT_PHẠ HẠ .
33. Nếu vì lòng từ bi muốn cho tất cả chúng sanh được nhờ sự chở che giúp đỡ , nê cầu nơi tay cầm cây tích -trượng .
Chân ngo^n rằng : ÁN ---, NA LẬT THẾ NA LẬT THẾ , NA LẬT TRA BÁT ĐẾ , NA LẬT ĐẾ NA DẠ BÁT NẢNH , HỒNG PHẤN TRA .
34. Nếu muốn cho tất cả chúng sanh thường cung kính yêu mến nhau , nên cầu nơi tay hiệp -chưởng .
Chân ngo^n rằng : ÁN ---, BÁT NẠP MẠNG NHÁ LĂNG , HẤT RỊ (theo trong tạng bản , lại có chân ngôn: ÁN---, VĨ TÁT RA , VĨ TÁT RA, HỒNG PHẤN TRA )
35. Nếu muốn tùy theo chỗ sanh , thường ở bên Phật , nên cầu nơi tay hiện hóa Phật .
Chân ngo^n rằng : ÁN ---, CHIẾN NA RA , BA HÀM TRA RỊ , CA RỊ NA , CHỈ RỊ NA , CHỈ RỊ NỈ , HỒNG PHẤN TRA
36. Nếu muốn được đời đời kiếp kiếp thường ở trong cung điện Phật , khng thọ sanh ở bào thai , nên cầu nơi tay hiện hóa –cung điện .
Chân ngo^n rằng : ÁN ---, VI TÁT RA , VI TÁT RA , HỒNG PHẤN TRA .
37. Nếu muốn được học rộng nghe nhiều , nên cầu nơi tay cầm quyển kinh báu .
Chân ngo^n rằng : ÁN ---, A HẠ RA , TÁT RA PHẠ NI , NẺ DÃ ĐÀ RA , BỐ NẺ ĐẾ , TÁT_PHẠ HẠ .
38. Nếu muốn từ thân nà6 cho đến thân thành Phật , tâm bồ-đề thường không lui sụt , nên cầu nơi tay cầm bất thối-kim-luận .
Chân ngo^n rằng : ÁN ---, THIẾT NA DỊ TẢ , TÁT_PHẠ HẠ .
39. Nếu muốn mười phương chư Phật mau đến xoa đầu thọ-ký , ên cầu ni tay đảnh thương –hóa Phật .
Chân ngo^n rằng : ÁN ---, PHẠ NHỰT_RỊ NI , PHẠ NHỰT_LÂM NGHỆ , TÁT_PHẠ HẠ .
40. Nếu muốn có được cây trái ngũ cốc , nên cầu nơi tay cầm chùm bồ-đào.
Chân ngôn rằng : ÁN ---, A MA LÃ KIẾM ĐẾ NẺ NẢNH , TÁT_PHẠ HẠ
- 41. Nếu muốn cho tất cả loài hữu tình đói khát được no đủ mát mẻ , nên cầu nơi tay hóa nước cam-lộ .
Chân ngôn rằng : ÁN ---, TỐ RÔ TỐ RÔ , BÁC –RA TỐ RÔ , BÁC_RA TỐ RÔ , TỐ RÔ , TỐ RÔ DÃ , TÁT_PHẠ HẠ
- 42. Nếu muốn hàng phục ma oán trong cõi đại thiên , nên cầu nơi tay tổng-nhiếp thiên -thủ .
Chân ngôn rằng : ĐÁT NÉ DÃ THÁ , PHẠ LỒ CHĨ ĐẾ , THẤP PHẠ RA DÃ , TÁT BÀ ĐỐT SẮC , TRA Ô HẠ DI DẢ , SÁ_PHẠ HẠ .
- Nầy A –Nan ! Những việc có thể cầu mong như thế , kể có ngàn điều . Nay ta chỉ nói lược qua chút ít phần thôi . Khi ấy Nhựt-Quang Bồ-Tát vì người thọ trì Đại –Bi –Tâm đà-ra-ni mà noí đại thần chúđể ủng hộ rằng :
NAM MÔ BỘT – DÀ CÙ NA MÊ . NAM MÔ ĐẠT MẠ MẠC HA ĐẾ , NAM MÔ TĂNG –GIÀ ĐẠ DẠ NÊ . ĐẾ CHỈ BÔ TẤT TÁT ĐỐT CHIÊM NẠP MẠ.
Nhựt –Quang Bồ-Tát bạch Phật :
- Bạch Đức Thế -Tôn ! Tụng chú này diệt được tất cả tội , cũng đuổi được ma và trừ thiên tai . Nếu kẻ nào tụng chú này một biến , lễ Phật một lạy , mỗi ngày chia ra làm ba thời tụng chú lễ Phật như thế , trong đời vị lay tùy theo chỗ thọ thân , thường được tướng mạo xin đẹp , được quả báo đáng vui mừng .
- Nguyệt –Quang Bồ -Tát cũng vì hành nhơn mà nói đà-ra-ni để ủng hộ rằng :
THÂM ĐẾ ĐẾ ĐỒ TÔ TRA . A NHÃ MẬT ĐẾ Ô ĐÔ TRA THÂM KỲ TRA . BA LẠ ĐẾ . GIAN HI DÃ TRA Ô ĐÔ TRA. CÂU LA ĐẾ TRA KỲ MA TRA. SÁ PHẠ HẠ .
Nguyệt –Quang Bồ -tát lại bạch Phật :
- Bạch đức Thế -Tôn ! Tụng chú này năm biến , rồi lấy chỉ ngũ-sắc xe thành niệt , gia –trì chú vào , Buộc tréo nơi tay . Chú này do bốn mươi hằng hà –sa chư Phật đời quá-khứ đã nói ra , nay tôi cũng nói để vì các hành nhơn mà làm duyên ủng hộ . Chú nà6 có công –năng trừ tất cả các chướng nạn , tất cả bịnh ác , thành -tựu tất cả pha/p lành , xa lìa tất cả sự sợ hãi .
- Đức Phật bảo ngài A-Nan: -Ông nên dùng lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn Đại –Bi-Tâm đà-ra-ni này, và lưu-bố rộng ra trong cõi Diêm-phù-đề , chớ có đoạn tuyệt . Đà-ra-ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong ba cõi . Tất cả bịnh khổ ràng buộc nơi thân , nếu dùng đà-ra-ni này mà trị thì không bịnh nào chẳng lành . Dùng đại thần chú này tụng vào cây khô , cây ấy con` được sanh cành lá , trổ bông trái , huống chi là chúng sanh có tình -thức ư ? Nếu thân bị đau bịnh , dùng chú nà6 trị mà không lành , lẽ ấy không bao giờ có .
- Nầy thiện-nam tử ! Sức oai thần của Đại –Bi –Tâm đà-ra-ni không thể nghĩ bàn ! Không thể nghĩ bàn ! Khen ngợi không bao giờ hết được ! Nếu chẳng phải là kẻ từ đời quá khứ lâu xa đến nay đã gieo nhiều căn lành , thì dù cho cái tên gọi còn không được nghe , huống chi là được thấy ! Nay đại chúng các ông , cả hàng trời , người , long , thần , nghe ta khen ngợi phải nên tùy hỉ . Nếu kẻ nào hủy báng thần chú này tức là hủy báng chín mươi chín ức hằng hà sa chư Phật kia . Nếu người nào đối với đà-ra-ni này sanh nghi không tin , nên biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích lớn , trăm ngàn muôn kiếp không nghe thấy Phật , Pháp , Tăng , thường chìm trong tam đồ , chẳng biết bao giờ mới được ra khỏi .
- Khi ấy tất cả chúng hội , Bồ -Tát Ma-ha-Tát , Kim-Cang , Mật-Tích , Phạm-vương , Đế-Thích , Tứ-đại –thiên –vương , thiên , long , quỉ , thần , nghe đức Như –lai khen ngợi môn đà-ra-ni này xong , thảy đều vui mừng , y lời dạy mà tu hành .
|