Quyển Thứ Tư
Phẩm Thứ Mười Ba - Vô Tránh Hạnh
Đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ tát:
Nầy Hiền Hộ! Nếu tỳ kheo nào ưa muốn tu tập môn tam muội nầy, trước tiên hết phải quán tưởng, đã quán sát rồi nhờ đó không sanh ngã mạn trừ được kiêu căng tâm ý nhẹ nhàng xa lìa các tướng, bấy giờ mới vì kẻ khác nói về tam muội, không nên sanh phiền não. Nghĩa của phiền não trong đây tức là vọng tưởng dựa vào rỗng không gọi là phiền não.
Nầy Hiền Hộ! Thế nên các tỳ kheo nhờ vô tranh (không sanh phiền não tham, sân, si) nên có khả năng tu học và dạy dỗ môn tam muội nầy cho kẻ khác.
Hiền Hộ! Có các thiện nam thiện nữ muốn tu học và giải thích cho kẻ khác về môn tam muội nầy cần phải thành tựu đầy đủ mười pháp sau đó mới giải thích môn tam muội nầy cho người khác được: Một là thiện nam thiện nữ nầy trước tiên chế phục ngã mạn sanh tâm cung kính. Hai là nhớ ân không quên lòng thường tìm cách đáp trả. Ba là tâm không ỷ lại cũng không ganh tỵ. Bốn là dứt trừ nghi hoặc và các sự ngăn ngại. Năm là đức tin sâu dày khó hư hoại, nhiếp niệm nội quán. Sáu là siêng năng tinh chuyên kinh hành không mỏi mệt. Bảy là luôn luôn khất thực không nhận thỉnh riêng. Tám là ít muốn biết đủ, thu thúc sáu căn. Chín là tin chơn chánh nơi pháp nhẫn vô sanh sâu xa. Mười là thường nghĩ đắc tam muội nầy, và đối với bậc thầy đã đắc tam muội nầy rồi tưởng như chư Phật, tùy thuận theo thầy tu tập môn tam muội nầy.
Nầy Hiền Hộ! Thiện nam thiện nữ nầy đã hoàn mãn mười pháp trên nên cần tu tập tam muội nầy và cũng khuyến khích kẻ khác thọ trì đọc tụng. Hành giả nầy sẽ được tám việc: một là hoàn toàn trong sạch vì không hủy phạm các cấm giới, hai là tri kiến thanh tịnh hòa hợp với trí huệ không tương xứng với gì khác, ba là trí huệ thanh tịnh vì không còn lưu phiền não, bốn là bố thí thanh tịnh vì không mong cầu quả báo, năm là đa văn thanh tịnh vì đã nghe pháp rồi không bao giờ quên mất, sáu là tinh tấn thanh tịnh vì hằng thời lúc nào cũng mong cầu Phật Bồ đề, bảy là hạnh viễn ly thanh tịnh vì không nhiễm trước nơi danh lợi, tám là hạnh bất thối thanh tịnh sẽ đắc trí giác vô thượng vì tâm ban sơ không xao động. Đó là tám việc mà thiện nam thiện nữ nầy thu hoạch được.
Khi đó Phật muốn lập lại lời trên nên nói bài kệ:
Kẻ trí không khởi tưởng hữu tướng
Cũng trừ kiêu mạn và ngã tâm
Trong môn nhẫn sau không nắm giữ
Vị nầy giảng giải được tam muội.
Trong không xưa nay, diệt phiền não
Niết bàn không tướng đại tịch tịnh
Đối Phật không hiềm, không báng pháp
Kẻ nầy xứng đáng nói tam muội.
Người trí không nổi lòng ganh tỵ
Nhớ Phật ân đức cùng pháp, tăng
Giáng sanh hàng phục không đổi đời
Một lòng phẳng lặng trì tam muội,
Không có ganh tỵ cũng không nghi
Suy tư pháp sâu tin chơn thật
Tinh tấn không lười lìa dục vọng
Ai được thế nầy đắc tam muội
Thường hành tỳ kheo pháp khất thực
Xả bỏ thỉnh riêng huống chi tài
Dứt trừ cấu nhiễm chứng chơn như
Ai được thế nầy đắc tam muội
Ai có được tam ma đề nầy
Nghe lời họ dạy, rộng phổ biến,
Xem họ khác gì đức Thế Tôn
Kẻ hành động thế đắc tam muội,
Nếu người tu hành tam muội nầy
Đầy đủ công đức siêu thế gian
Họ sẽ thu hoạch tám thứ pháp
Xứng hợp tâm Phật, sạch bụi trần
Giữ giới thanh tịnh tuyệt bờ mé
Tam muội, bồ đề và thắng kiến
Kẻ nầy thành tựu trong các hữu,
An trụ tối hậu diệu công đức.
Trí huệ thanh tịnh hết phiền não
Bố thí không nghĩ nhập vô vi
Đắc được đa văn không hề quên
Đó là kho đức của kẻ trí,
Dõng mãnh tinh tấn đắc bồ đề
Không tham danh lợi ở cõi đời
Nếu các kẻ trí khéo thực hành
Họ sẽ nhập diệu thiền vô thượng.
|