SÁM PHÁT NGUYỆN
Ðệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao tội-ác bởi lầm mê,
Ðắm trong sanh-tử đã bao lần,
Nay đến trước đài Vô-thượng giác:
Biển trần khổ lâu đời luân-lạc.
Với sanh-linh vô số điêu tàn,
Sống u hoài trong kiếp lầm than,
Con lạc lõng không nhìn phương hướng,
Ðàn con dại, từ lâu vất vưởng,
Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng,
Xin hướng về núp bóng từ quang,
Lạy Phật-Tổ soi đường dẫn bước,
Bao tội khổ trong đường ác trược,
Vì tham, sân, si, mạn gây nên,
Thì hôm nay giữ trọn lời nguyện.
Xin sám-hối để lòng thanh thoát.
Trí-huệ quang-minh như nhựt nguyệt
Từ-bi vô-lượng cứu quần-sanh,
Ôi! Từ lâu ba chốn ngục hình,
Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi,
Theo gót Ngài vượt qua khổ ải,
Nương thuyền từ vượt bể ái hà,
Nhớ lời Ngài: "bờ giác không xa",
Hành thập thiện cho đời tươi sáng,
Bỏ việc ác cho đời quang-đảng,
Ðem phúc lành gieo rắc phàm nhân,
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng,
Con nguyện được sống đời rộng rãi,
Con niệm Phật để lòng nhớ mãi,
Hình bóng người cứu khổ chúng-sanh
Ðể theo Ngài trên bước đường lành,
Chúng con khổ nguyền xin cứu khổ,
Chúng con khổ nguyền xin tự độ,
Ngoài tham lam, sân hận ngập trời.
Phá si mê trí-huệ tuyệt-vời,
Con nhớ Ðức Di-Ðà Lạc-quốc
Phật A-Di-Ðà thân kim sắc
Tướng tốt quang-minh tự trang-nghiêm.
Năm Tu-Di uyển-chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc
Trong hào quang hóa vô-số Phật
Vô-số Bồ-tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện-độ chúng-sanh
Chín phẩm sen-vàng lên giải-thoát
Quy, mạng lễ A-Di-Ðà Phật
Ở phương Tây thế-giới an lành
Con nay xin phát-nguyện vãng-sanh
Cúi xin đức Từ-Bi tiếp độ.
Nam-mô Tây-phương Cực-Lạc thế giới, Ðại-từ, Ðại-bi A-Di-Ðà Phật.
SÁM QUY MẠNG
Quy mạng thập phương Ðiều-Ngự Sư
Diễn dương thanh-tịnh Vi diệu pháp
Tam-thừa tứ quả giải-thoát tăng.
Nguyện tứ từ bi ai nhiếp thọ
Ðể tử chúng đẳng
Tự vi chơn tánh
Uổng nhập mê lưu
Tùy sanh tử dĩ phiêu trầm
Trục sắc thanh nhi tham nhiễm
Thập-triền thập-sử
Tích thành hữu-lậu chi nhân
Lục căn, lục trần
Vọng tác vô biên chi tội
Mê luân khổ hải
Thâm nịch tà đồ
Trước ngã đam nhân
Cử uổng thố trực
Lụy sanh nghiệp chướng
Nhứt thiết khiên vưu
Ngưỡng Tam-Bảo dĩ từ-bi
Lịch nhứt tâm nhi sám hối
Sở nguyện-Năng-Nhơn chẩn bạt
Thiện hữu đề huề
Xuất phiền-não chi thâm-uyên
Ðáo Bồ-Ðề chi bỉ ngạn
Thử thế phước cơ mạng vị
Các nguyện xương long
Lai sanh trí chủng linh miêu
Ðồng hi tăng tú
Sanh phùng trùng quốc
Trưởng ngộ minh sư
Chánh tín xuất-gia
Ðồng chơn nhập đạo
Lục căn thông lợi
Tam nghiệp thuần hòa
Bất nhiễm thế duyên
Thường tu Phạm hạnh
Chấp trì cấm giới
Trần nghiệp bất xâm
Nghiêm hộ oai nghi
Quyên phi vô tổn
Bất phùng bát nạn
Bất khuyết tứ duyên
Bát-nhã trí dĩ hiện tiền
Bồ-Ðề tâm nhi bất thối
Tu tập chánh pháp
Liễu ngộ Ðại-Thừa
Khai Lục-Ðộ chi hạnh môn
Việt tam-kỳ chi kiếp hải
Kiến pháp tràng ư xứ xứ
Phá nghi võng ư trùng trùng
Hàng phục chúng ma
Thiệu Long Tam Bảo
Thừa sự thập phương chư Phật
Vô hữu bì lao
Tu học nhứt thiết Pháp môn
Tất giai thông đạt
Quảng tác phương huệ
Phổ lợi trần sa
Ðắc lục chủng chi thần thông
Viên nhất sanh chi Phật quả.
Nhiên hậu bất xả pháp giới
Biến nhập trần lao
Ðẳng Quan Âm chi từ tâm
Hạnh Phổ Hiền chi nguyện hải
Tha phương thử giới
Trục loại kỳ hình
Ứng hiện sắc thân
Diễn dương diệu pháp
Nê lê khổ thú
Ngạ quỉ đạo trung
Hoặc phóng đại quang minh
Hoặc biến chư thần biến
Kỳ hữu kiến ngã tướng
Nãi chí văn ngã danh
Giai phát Bồ-Ðề tâm
Vĩnh xuất luân hồi khổ
Hỏa hoạch băng hà chi địa
Biến tác hương lâm
Ẩm đồng thực thiết chi đồ
Hóa sanh Tịnh-độ
Phi mao đới giác
Phụ trái hàm oan
Tận bãi tân toan
Hàm triêm lợi lạc
Tật dịch thế nhi
Hiện vi dược thảo
Cứu liệu trầm kha
Cơ cẩn thời nhi
Hóa tác đạo lương
Tế chư bần nỗi
Ðản hữu lợi ích
Vô bất hưng sùng.
Thứ kỳ lũy thế oan thân
Hiện tồn quyến thuộc
Xuất tứ sanh chi khốt một
Xả Vạn kiếp chi ái triền
Ðẳng dữ hàm sanh
Tề thành Phật đạo.
Hư không hữu tận
Ngã nguyện vô cùng
Tình dữ vô tình
Ðồng viên chủng trí.
SÁM KHỂ THỦ
Khể thủ Tây Phương an lạc quốc,
Tiếp dẫn chúng sanh đại đạo sư
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ.
Ðệ tử chúng đẳng
Phổ vị tứ ân tam hữu
Pháp giới chúng sanh
Cầu ư chư Phật
Nhứt thừa vô thượng
Bồ đề đạo cố
Chuyên tâm trì niem
A Di Ðà Phật
Vạn đức hồng danh
Kỳ sanh Tịnh Ðộ
Hựu dĩ nghiệp trọng phước khinh
Chướng thâm huệ thiển
Nhiễm tâm dị xí
Tịnh đức nan thành
Kim ư Phật tiền
Kiều cầu ngũ thể
Phi lịch nhứt tâm
Ðầu thành sám hối
Ngã cập chúng sanh
Khoáng kiếp chí kim,
Mê bổn tịnh tâm
Túng tham sân si
Nhiễm uế tam nghiệp
Vô lượng vô biên
Sở tác tội cấu
Vô lượng vô biên
Sở kết oan nghiệp
Nguyện tất tiêu diệt
Tùng ư kim nhật
Lập thâm thệ nguyện
Viễn ly ác pháp
Thệ bất cánh tạo
Cần tu thánh đạo
Thệ bất thối đọa
Thệ thành Chánh Giác
Thệ độ chúng sanh
A Di Ðà Phật
Dĩ từ bi nguyện lực
Ðương chứng tri ngã
Ðương ai mẫn ngã
Ðương gia bị ngã
Nguyện thiền quán chi trung
Mộng mị chi tế
Ðắc kiến A Di Ðà Phật
Bảo nghiêm chi độ
Cam lồ quán đảnh
Quang minh chiếu thân
Thủ ma ngã đầu
Y phú ngã thể
Sử ngã túc chướng tự trừ
Thiện căn tăng trưởng
Tật vô phiền não
Ðốn phá vô minh
Viên giác diệu tâm
Hoắt nhiên khai ngộ
Tịch quang chơn cảnh
Thường đắc hiện tiền
Chí ư lâm dục mạng chung
Dự tri thời chí
Thân vô nhứt thiết
Bệnh khổ ách nạn
Tâm vô nhứt thiết
Tham luyến mê hoặc
Chư căn duyệt dự
Chánh niệm phân minh
Xả báo an tường
Như nhập thiền định
A Di Ðà Phật
Dữ Quan Âm Thế Chí
Chư thánh hiền chúng
Phóng quang tiếp dẫn
Thùy thủ đề huề
Lầu các tràng phan
Dị hương thiên nhạc
Tây phương thánh cảnh
Chiếu thị mục tiền
Linh chư chúng sanh
Kiến giả văn giả
Hoan hỷ cảm thán
Phát Bồ-Ðề tâm
Ngã ư nhĩ thời
Thừa Kim Cang đài
Tùy tùng Phật hậu
Ư đờn chỉ khoảnh
Sanh Cực Lạc quốc
Thất bảo trì nội
Thắng liên hoa trung
Hoa khai kiến Phật
Kiến chư Bồ Tát
Văn diệu Pháp âm
Hoặch vô sanh nhẫn
Ư tu du gian
Thừa sự chư Phật
Thân mông thọ ký
Ðắc thọ ký dĩ
Tam thân tứ trí
Ngũ nhãn lục thông
Vô lượng bách thiên
Ðà La Ni môn
Nhứt thiết công đức
Giai tất thành tựu
Nhiên hậu bất vi an dưỡng
Hồi nhập Ta Bà
Phân thân vô số
Biến thập phương sát
Dĩ bất khả tư nghì
Tự tại thần lực
Chủng chủng phương tiện
Ðộ thoát chúng sanh
Hàm linh ly nhiễm
Hoàn đắc tịnh tâm
Ðồng sanh Tây phương
Nhập bất thối địa
Như thị đại nguyện
Thế giới vô tận
Chúng sanh vô tận
Nghiệp cập phiền não
Nhứt thiết vô tận
Ngã nguyện vô tận
Nguyện kim lễ Phật phát nguyện
Tu trì công đức
Hối thí hữu tình
Tứ ân tổng báo
Tam hữu tề tư
Pháp giới chúng sanh
Ðồng viên chủng trí.
Thiên A Tu La
Thiên A Tu La Dược Xoa đẳng
Lai thính Pháp giả ứng chí tâm
Ủng hộ Phật pháp sử trường tồn
Các các cần hành Thế Tôn giáo
Chư hữu tín đồ lai chí thử
Hoặc tại địa thượng hoặc hư không
Thường ư nhân thế khởi từ tâm
Trú dạ từ thân y pháp trụ
Nguyện chư thế giới thường an ổn
Vô biên phước trí ích quần sanh
Sở hữu tội nghiệp tịnh tiêu trừ
Viễn ly chúng khổ quy viên tịch
Hằng dụng giới hương đồ khuynh thể
Thường trì định phục dĩ tư thân
Bồ đề diệu hoa biến trang nghiêm
Tùy sở trụ xứ thường an lạc.
BÀI TỐNG-TÁNG
Cuộc hồng trần xoay vần quá ngán,
Kiếp phù-sanh tụ tán mấy lâm hồi;
Người đời có biết chăng ôi!
Thân người tuy có, có rồi hoàn không,
Chiêm-bao khéo khuấy lạ lùng,
Mơ-màng trong một giấc nồng mà chi,
Làm cho buồn bả thế ni,
Hình-dung mới đó bữa nay đâu rồi,
Khi nào đứng đứng ngồi ngồi,
Bây giờ thiêm-thiếp như chồi cây khô,
Khi nào du lịch giang hồ,
Bây giờ nhắm mắt mà vô quan tài,
Khi nào lược giắt trâm cài,
Bây giờ gởi xác ra ngoài gò hoang:
Khi nào trao ngọc chuốt vàng,
Bây giờ một nắm xương tàn lạnh tanh,
Khi nào mắt đẹp mày thanh,
Bây giờ thấy dạng thấy hình là đâu,
Khi nào lên các xuống lầu,
Bây giờ một nắm cỏ sầu xanh xanh,
Khi nào liệt-liệt oanh-oanh,
Bây giờ một trận tan tành gió mưa,
Khi nào ngựa lọc xe lừa,
Bây giờ mây rước trăng đưa mơ màng,
Khi nào ra trướng vào màn,
Bây giờ nhà cửa xóm làng cách xa,
Khi nào mẹ-mẹ cha-cha,
Bây giờ bóng núi cách xa muôn trùng,
Khi nào vợ-vợ chồng-chồng,
Bây giờ trăng khuyết còn mong chi tròn,
Khi nào cháu-cháu con-con,
Bây giờ hai ngã nước non xa vời,
Khi nào cốt nhục vẹn mười,
Bây giờ lá héo nhành tươi vui gì,
Khi nào bạn hữu sum vầy,
Bây giờ chén rượu cuộc kỳ vắng thiu,
Cái thân như tất bóng chiều,
Như chùm bọt nước phạp-phiều ngoài khơi,
Xưa ông Bành-Tổ sống đời,
Tám trăm tuổi thọ nay thời còn đâu,
Sang mà đến bực Công Hầu,
Giàu mà đến bực bấy lâu Thạch-Sùng,
Nghèo mà đói khát lạnh lùng,
Khổ mà tóc cháy da phồng trần ai,
Phù du sớm tối một mai,
Giàu sang cũng thác xạt xài cũng vong,
Thông minh tài trí anh hùng,
Si mê dại dột cũng chung một gò,
Biển trần nhiều nổi gay go,
Mau mau nhẹ gót qua đò sông mê,
Sự đời nên chán nên chê,
Tầm nơi giải thoát mà về mới khôn,
Vong hồn ơi, hỡi vong hồn,
Cuộc đời nay biển mai cồn tỉnh chưa,
Tỉnh rồi một giấc say sưa,
Sẽ xin niệm Phật mà đưa hồn về,
Hồn về Cực-Lạc nước kia,
Cho xa hang quỷ mà lìa kiếp ma,
Nhờ ơn đức Phật Di-Ðà,
Phóng ra một ngón chói lòa hào-quang,
Trong khi tiếp dẫn rõ ràng,
Dắt hồn ra khỏi sáu đàng nghiệp nhơn,
QUÁN-ÂM BỒ-TÁT vui mừng,
Tay cầm nhành liễu tay bưng kim-đài,
Với cùng THẾ-CHÍ các ngài,
Cũng đều khuyến thỉnh lên ngai sen vàng,
Có bảo-cái, có tràng-phan,
Có mùi hương lạ, có đàn ngọc xây,
Có Trời các cõi truy tùy,
Có đờn, có trống, rước đi một đường,
Rước về đến cảnh Tây-Phương,
Có ao Thất-bảo có hương ngũ phần,
Lưu-ly có đất sáng ngần,
Ma-ni có nước trong tần chảy quanh,
Thất-trân có bảy lớp thành,
Bảy hàng cây báu, bảy vành lưới châu,
Có ngân-các, có kim-lầu,
Có chim nói pháp diệu-mầu dễ nghe,
Nghe rồi tỏ đạo BỒ-Ðề,
Bao nhiêu nghiệp chướng hồn mê dứt liền,
Ðã sanh về chín phẩm sen,
Mấy tai cũng xảy, mấy duyên cũng tròn,
Phật như thể mẹ tìm con,
Con mà gặp mẹ lại còn lo chi,
Lầu vàng đài các thiếu gì,
Ăn thì cơm ngọc, mặc thì áo châu,
Không ơn, không oán, không sầu,
Không già, không chết, có đâu luân-hồi,
Tánh xưa nay đã tỏ rồi,
Gương xưa rày đã lau chùi trần-ô,
Tu hành phải đợi kiếp mô,
Nguồn tình biển ái đã khô bao giờ,
Lựa là phải lựa thiền-cơ,
Mà đèn trí-huệ để lờ đi đâu
Mấy lời hộ niện trước sau,
Nguyện cho thành Phật mau mau nữa mà,
Phân thân ra khỏi TA-BÀ,
Từ-bi tiếp độ những là chúng-sanh.
CÁC NGÀY KỶ NIỆM
(Tính theo ngày Âm-lịch)
THÁNG GIÊNG:
Ngày 1.- Vía đức Di-Lặc.
22.- Tổ Thập-Tháp (Phước-Huệ, chứng-minh Ðạo sư Hội Phật-giáo Trung-Phần) viên tịch.
30.- Tổ Khánh-Anh (Thượng-thủ Giáo-hội Tăng-già toàn quốc V.N. niên khóa II, Pháp-chủ Giáo-hội Tăng-già V.N. niên khóa II) viên tịch.
THÁNG HAI:
Ngày 8.- Vía Phật Thích-Ca xuất-gia.
15.- Vía Phật Thích-Ca nhập-diệt.
19.- Vía Ðức Quán-Thế-Âm Bồ-tát.
21.- Vía Ðức Phổ-Hiền Bồ-tát.
THÁNG BA:
Ngày 16.- Vía Ðức Chuẩn-Ðề Bồ-tát.
THÁNG TƯ:
Ngày 3.- Tổ Tuệ-Tạng (Thượng-chủ Giáo-hội Tăng-già toàn quốc V.N. niên khóa I) viên tịch.
04.- Vía Ðức Văn-Thù Bồ-tát.
15.- Vía Phật Thích-Ca giáng-sanh.
20.- Bồ-tát Thích-Quảng-Ðức vị pháp thiêu thân (nhằm 11-6-1963).
THÁNG SÁU:
Ngày 15.- Ðại-đức Thích-Nguyên-Hương vị pháp thiêu thân (nhằm 4-8-1963).
19.- Vía Ðức Quán-Thế-Âm Bồ-tát.
19.- Tổ Khánh-Hòa (Sơ-tổ Phong-trào Chấn-hưng Phật-giáo miền Nam) viên tịch.
24.- Ðại-đức Thích-Thanh-Tuệ vị pháp thiêu thân (nhằm 13-8-1963).
26.- Thích-nữ Diệu-Quang vị pháp thiêu thân (nhằm 15-8-1963).
27.- Ðại-đức Thích-Tiêu-Diêu vị pháp thiêu thân (nhằm 16-8-1963).
THÁNG BẢY:
Ngày 13.- Vía Ðức Ðại-Thế-Chí Bồ-tát.
15.- Lễ Vu-Lan Bồn.
30.- Vía Ðức Ðịa-Tạng Bồ-tát.
THÁNG CHÍN:
Ngày 02.- Ðại-đức Thích-Quảng-Hương vị pháp thiêu thân (nhằm 5-10-1963).
11.- Ðại-đức Thích-Thiện-Mỹ vị pháp thiêu thân (nhằm 27-10-1963).
19.- Vía Ðức Quán-Thế-Âm Bồ-tát.
30.- Vía Phật Dược-Sư.
THÁNG MƯỜI MỘT:
Ngày 01.- Tổ Huệ-Quang (Pháp-chủ G.H.T.G.N.V niên khóa I) viên tịch.
17.- Vía Phật A-Di-Ðà.
THÁNG CHẠP:
Ngày 08.- Vía Phật Thích-Ca thành đạo.
08.- Tổ Vĩnh-Nghiêm (Thiền-gia Pháp-chủ Giáo-hội Tăng-già B.V.) viên tịch.
NHỮNG NGÀY TRAI
Thập trai: Mỗi tháng mười ngày:
Mồng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 25, 28, 29, 30.
(nếu tháng thiếu thì kể cả ngày 27).
Lục trai: Mỗi tháng sáu ngày:
Mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30.
Tứ trai: Mỗi tháng bốn ngày:
Mồng 1, 14, 15, 30.
Nhị trai: Mỗi tháng hai ngày:
Mồng 1, 15.
Tam ngoạt trai: Một năm ba tháng:
Tháng giêng, tháng bảy, tháng mười.
*** Những ngày trai không nên dùng các món gia-vị như: hành, hẹ, nén, tỏi, tỏi tây v.v...
MƯỜI CÔNG ÐỨC ẤN TỐNG KINH, TƯỢNG PHẬT
- Một là, những tội lỗi đã tạo từ trước, nhẹ thì được tiêu trừ, nặng thì chuyển thành nhẹ.
- Hai là, thường được các thiện thần ủng hộ, tránh được tất cả tai ương hoạn nạn, ôn dịch, nước, lửa, trộm cướp, đao binh, ngục tù.
- Ba là, vĩnh viễn tránh khỏi những quả báo phiền khổ, oán cừu oan trái của đời trước cũng như đời này.
- Bốn là, các vị hộ pháp thiện thần thường gia hộ nên những loài dạ xoa ác quỷ, rắn độc hùm beo tránh xa không dám hãm hại.
- Năm là, tâm được an vui, ngày không gặp việc nguy khốn, đêm ngủ không thấy ác mộng. Diện mạo hiền sáng, mạnh khỏe an lành, việc làm thuận lợi, được kết quả tốt.
- Sáu là, chí thành hộ pháp, tâm không cầu lợi, tự nhiên y phục đầy đủ, gia đình hòa thuận, phước lộc đời đời.
- Bảy là, lời nói việc làm trời người hoan hỷ, đến đâu cũng được mọi người kính mến ngợi khen.
- Tám là, ngu chuyển thành trí, bệnh lành mạnh khỏe, khốn nghèo chuyển thành thịnh đạt. Nhàm chán nữ thân, mệnh chung liền được nam thân.
- Chín là, vĩnh viễn xa lìa đường ác, sanh vào cõi thiện, tướng mạo đoan nghiêm, tâm trí siêu việt, phước lộc tròn đầy.
- Mười là, hay vì tất cả chúng sinh trồng các căn lành. Lấy tâm cầu của chúng sinh làm ruộng phước điền cho mình. Nhờ công đức ấy đạt được vô lượng phước quả thù thắng. Sanh ra nơi nào cũng thường được thấy Phật, nghe Pháp, phước huệ rộng lớn, chứng đạt lục thông, sớm thành Phật quả.
ẤN QUANG TỔ SƯ DẠY: - Ấn tống Kinh, tượng Phật được công đức thù thắng như vậy, nên gặp khi chúc thọ, thành hôn, cầu phước, thoát nạn, sám hối, cầu tiêu trừ tật bệnh, cầu siêu độ hương linh, hãy tinh tấn phát tâm Bồ-Ðề ấn tống, để trồng cội phước đức cho chính mình và thân bằng quyến thuộc.
|