p



 

QUYỂN SÁU

- CHƯƠNG VII --- PHẨM BIẾN HÓA
- CHƯƠNG VIII --- CẤM ĂN THỊT
- CHƯƠNG IX --- ĐÀ LA NI

- CHƯƠNG X --- KỆ TỤNG - PHẦN THỨ NHẤT

 

 

CHƯƠNG VII
PHẨM BIẾN HÓA

 

Bấy giờ Đại huệ Bồ tát đại hữu tình bạch Phật:

Bạch Thế tôn! Như lai vì cớ gì thọ ký cho các bậc A la hán rằng họ sẽ chứng Vô thượng chính đẳng chính giác? Vì cớ gì mà nói rằng chúng sinh không chứng pháp Bát Niết bàn cũng thành Phật? Lại cớ gì nói từ khi Như lai mới thành Phật đến khi nhập Niết bàn, trong thời gian đó Phật không nói một chữ nào? Lại nói Như lai thường trú trong định không giác không quán? Lại nói các phật sự đều là hóa tác. Lại nói các thức sát na biến hoại. Lại nói thần Kim cang thường theo hộ vệ. Lại nói giới hạn đầu tiên (primary limit - tiền tế) khôngthể biết, nhưng có thể biết tịch diệt. Lại nói có ma và các việc (nghiệp) của ma? Lại nói có dư báo, nói chuyện người con gái Bà la môn tên Chiên giá (Cancàmànavikà), người con gái ngoại đạo Tôn đà lợi (Sundarikà) cùng các chuyện (Phật) đi khất thực bát không trở về v.v.. Thế tôn đã có những nghiệp chướng như vậy (Kàrmavarana), làm sao thành được nhất thiết chủng trí (Sarvàkàranatà)? Nếu đã thành bậc nhất thiết chủng trí rồi, thì tại sao không lìa được những lỗi ấy?

Phật dạy:

Hãy nghe kỹ, ta sẽ nói. Đại huệ ! Ta vì Niết bàn vô dư nên mật khuyến các Bồ tát cõi này và các cõi khác, những vị tu Bồ tát hạnh mà lại cầu Niết bàn Thanh văn, mật khuyến họ xả bỏ tâm ấy siêng tu hạnh lớn. Lại biến ra Hóa Phật và các Hóa thanh văn mà thọ ký từng người, không phải pháp tính Phật làm việc thọ ký ấy. Đại huệ! Phật và nhị thừa không khác, do ở điểm rằng Phật và Thanh văn, Duyên giác đều cùng có một vị giải thoát là đoạn các hoặc chướng, không phải trí chướng (Jneyàvarana). Trí chướng thì phải thấy pháp vô ngã mới được thanh tịnh. Phiền não chướng (klesàvarana) thì khi thấy nhân vô ngã, ý thức liền xả. Ban đầu phải đoạn tập khí trong tạng thức thì sự giải thoát khỏi pháp chướng mới được vĩnh viễn thanh tịnh. Đại huệ! Ta y nơi pháp thường trú mà nói mật ngữ này, vì không khác với chư phật đời trước và đời sau, cũng nói pháp đầy đủ văn tự như thế. Đại huệ! Cái biết chân chính của như lai không có vọng niệm, không đợi tư lự suy nghĩ rồi mới nói, vì Như lai từ lâu đã đoạn bốn tập khí, (kiến, dục, sắc, hữu- DG) lìa hai chết (phân đoạn tử và biến dị tử-DG), trừ hai chướng ngại (hoặc chướng và trí chướng- DG). Đại huệ! ý (mạt na) và ý thức của năm thức căn (nhãn nhĩ tỷ thiệt thân- DG), bảy thứ do tập khí làm nhân, ấy là tính sát na, không có vô lậu thiện và cũng không chịu luân hồi. Đại huệ! Như lai tạng chính là nhân của sinh tử lưu chuyển và Niết bàn, của khổ và lạc; kẻ ngu không biết quấy chấp là không. Đại huệ! các đức Như lai biến hóa mới thường được Kim cang lực sĩ theo hộ vệ, chứ không phải các đức Phật chân thật. Như lai chân thật vượt ngoài mọi giác quan và đo lường, nhị thừa ngoại đạo không biết được, an trú nơi pháp lạc hiện hữu và đã thành tựu trí nhẫn. Bởi thế không cần được Kim cang lực sĩ hộ vệ. Tất cả hóa Phật đều không do nghiệp sinh, không phải phật cũng không phải phi Phật. Thí như thợ gốm hòa các thứ lại mà làm các đồ vật, hóa phật cũng thế; đầy đủ các tướng hiện ra để diễn nói pháp, nhưng vẫn không thể nói được cảnh giới do Thánh trí tự chứng mà có.

Lại nữa, Đại huệ! Các kẻ phàm ngu thấy sáu thức diệt mà chấp đoạn kiến, không hiểu rõ Tạng thức thì sinh chấp thường kiến. Đại huệ! Biên giới đầu tiên của vọng tâm phân biệt vốn không tự tính, bất khả đắc. Lìa phân biệt ấy liền được giải thoát, đoạn bốn thứ tập khí, lìa hết thảy lỗi lầm.

Bấy giờ Thế tôn lại nói bài tụng:

Tam thừa cùng không thừa

Không có Phật Niết bàn

Tất thọ ký thành Phật

Nói lìa các lỗi ác

Thành tựu trí cứu cánh

Cùng vô dư niết bàn

Để dụ kẻ hèn nhát

Theo mật ý kia nói

Trí sở đắc của Phật

Diễn nói đạo như thế

Ở đây không đâu khác

Nên phật không Niết bàn

Các kiến, dục, sắc, hữu

Bốn tập khí như thế

Ý thức từ đó sinh

Tạng, Mạt na ở đó

Thấy ý thức, năm thức

Vô thường nên chấp đoạn

Mê ý, Tạng chấp thường

Tà trí gọi Niết bàn.

 

 

CHƯƠNG VIII
CẤM ĂN THỊT

 

Bấy giờ Đại huệ Bồ tát đại hữu tình lại bạch Phật rằng:

Bạch Thế tôn! Xin vì con nói các công đức và lỗi lầm của việc ăn thịt, không ăn thịt. Con cùng các Bồ tát biết nghĩa ấy rồi sẽ diễn nói cho chúng sinh ăn thịt ở hiện tại, vị lai bị các tập khí huân tập, và khiến họ bỏ vị thịt mà cầu vị pháp, đối với hết thảy mọi loài sinh lòng đại bi, thương như thương con một, ở địa vị Bồ tát, được vô thượng chính đẳng chính giác, hoặc tạm dừng ở nhị thừa rồi cuối cùng cũng thành vô thượng chính đẳng chính giác. Bạch Thế tôn! Những bọn Thế luận khởi kiến hữu vô, chấp trước đoạn, thường mà còn cấm không cho ăn thịt, huống hồ đức Như lai Ứng chính đẳng giác, đầy lòng đại bi, thế gian đều nương cậy, mà lại tự cho phép mình và kẻ khác ăn thịt hay sao. Hay thay! Đấng Thế tôn đầy đủ đại bi thương xót thế gian, thường xem chúng sinh như con một, nguyện xin Thế tôn giải nói cho con về những lỗi lầm và ác độc của sự ăn thịt và những công đức của sự kiêng thịt, khiến con cùng các Bồ tát nghe rồi phụng hành, rộng nói cho người.

Bấy giờ Đại huệ Bồ tát lại nói bài tụng:

Bồ tát đại hữu tình

Chí cầu Vô thượng giác

Rượu thịt cùng tỏi hành

Được ăn hay không được

Kẻ ngu tham ăn thịt

Hôi dơ không xiết kể

Đồng như ác thú kia

Làm sao mà ăn được

Kẻ ăn có lỗi gì

Không ăn có đức gì

Xin nguyện đấng Thế tôn

Vì con khai diễn hết.

Khi ấy Phật dạy Bồ tát Đại huệ rằng:

Đại huệ! Hãy nghe, và khéo suy nghĩ. Ta sẽ phân biệt rõ cho ông thấy. Đại huệ! Có vô số lý do khiến Bồ tát thương xót không ăn thịt, ta chỉ nói đôi phần. Đại huệ! Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay không ngừng qua lại trong sinh tử luân hồi, không khỏi có lần làm cha mẹ anh em con cái lẫn nhau, hoặc làm bà con, bè bạn, đầy tớ thân yêu... Sang đời khác họ sinh làm thân chim và thú, sao nỡ đem ăn thịt? Đại huệ! Bồ tát đại hữu tình xem chúng sinh như thân mình, nghĩ rằng thịt đều do có mạng sống mà ra, làm sao nỡ ăn? Đại huệ! Bọn quỷ la sát v.v.. nghe ta nói thế này còn bỏ ăn thịt, huống hồ những người thích pháp. Đại huệ! Bồ tát đại hữu tình ở đâu cũng xem chúng sinh là thân thuộc, cho đến nghĩ như con một của mình, nên không ăn tất cả thịt. Đại huệ! những người bán thịt ở góc đường chợ búa hoặc lấy thịt chó ngựa người trâu bò v.v.. đem bán để cầu lợi, uế tạp như thế làm sao ăn được.

Đại huệ! Hết thảy các thứ thịt đều do máu huyết ô uế làm ra, người cầu trong sạch sao lại ăn dùng. Đại huệ! chúng sinh khi thấy những người ăn thịt thì sợ hãi, kẻ tu từ tâm sao lại ăn thịt. Đại huệ! Những thợ săn, Chiên đà la (Càndàla), những người bắt cá, lưới chim, chó thấy thì sủa, thú vật thấy thì bỏ chạy. Tất cả chúng sinh bay trên không chạy trên đất, sống dưới nước, trông thấy những người kia đều nghĩ : "Tên ấy trông như quỷ la sát, nay đến đây chắc để giết mình." Vì lo giữ mạng sống nên chúng đều chạy tránh. Người ăn thịt cũng vậy. Cho nên Bồ tát vì tu hạnh từ không nên ăn thịt. Đại huệ ! Người ăn thịt thì thân thể hôi hám dơ bẩn, tiếng ác truyền khắp, hiền thánh, người tốt không thân gần, do vậy Bồ tát không nên ăn thịt. Đại huệ! Máu thịt là thứ mà tiên thánh không dùng, nên Bồ tát không ăn thịt. Đại huệ! Lại vì muốn gìn giữ tín tâm của chúng sinh, không để họ chê bai nhạo báng Phật pháp, nên Bồ tát không ăn thịt. Đại huệ! Nếu đệ tử ta ăn thịt, thì người đời sẽ ôm lòng chê bai, nói: "Sa môn tịnh hạnh sao lại từ bỏ vị ăn của chư thiên mà cư xử như ác thú, ăn thịt đầy bụng đi khắp thế gian, khiến chúng sinh cầm thú hoảng sợ, phá hạnh thanh tịnh, lỗi đạo sa môn? Xem đấy đủ biết Phật pháp không có hạnh điều phục." Bồ tát thương chúng sinh, muốn giữ cho họ khỏi sinh tâm ấy, nên không ăn thịt. Đại huệ! Khi thịt người cháy thì hơi hôi xông lên, các thứ thịt nướng khác cũng vậy. Cũng cùng là thịt, sao lại có thứ ăn, có thứ không ăn. Cho nên những người vui đạo thanh tịnh không nên ăn thịt. Đại huệ! Các nam nữ thiện tín tu hành thanh tịnh ở dưới cây hay nơi vắng vẻ để an trú tâm từ, trì chú cầu giải thoát, hoặc cầu pháp Đại thừa, nhưng vì ăn thịt mà không đạt được các mục đích trên. Bởi thế Bồ tát muốn lợi mình lợi người không nên ăn thịt. Đại huệ! Người ăn thịt khi trông thấy thịt liền sinh lòng tham ăn ngon. Bồ tát thương nghĩ hết thảy chúng sinh như thân mình, làm sao thấy thịt mà nghĩ đến chuyện ăn được? Vì thế Bồ tát không nên ăn thịt. Đại huệ! Lại người ăn thịt thì chư thiên xa lánh, hơi miệng thường hôi, ngủ mộng bất an, tỉnh dậy lo sợ, bị ác quỷ dạ xoa hút mất tinh khí, lòng nhiều hoảng sợ, ăn không biết đủ, tăng trưởng bệnh, dễ sinh ghẻ lở, mụt nhọt, thường bị vi trùng đục khoét, không thể sinh tâm chán ghét muốn xa lìa thịt. Đại huệ! Ta thường nói : "Tỳ kheo ăn cái gì cũng nên nghĩ như ăn thịt con." Các thức ăn khác còn thế, thì sao ta lại cho phép đệ tử ăn thịt được? Đại huệ! Thịt không tốt đẹp, không sạch, làm sinh các tội ác, phá hoại các công đức, bị chư thiên, thánh nhân xa lìa, sao ta lại cho phép đệ tử ăn thịt? Kẻ nào nói ta thuận cho ăn thịt chính là phỉ báng ta vậy. Đại huệ! Thức ăn sạch là lúa gạo, đậu, đại mạch, tiểu mạch, dầu mè, ván sữa, đường. Những loại như thế đều được chư Phật quá khứ cho phép ăn. Những thứ nên ăn ta nói đây là để cho những thiện nam tín nữ trong dòng họ ta, những kẻ có đức tin thanh tịnh, đã trồng căn lành từ lâu đời, không tham trước thân mạng tài sản, xót thương hết thảy như chính thân mình. Ta nói những vật nên ăn cho những người như vậy, chứ không phải cho những kẻ có thói quen độc ác, tính như hổ lang, lòng nặng dục vọng.

Đại huệ! Xưa có quốc vương tên Sư tử sinh (Simhasaydàsa), ưa mùi vị thịt, ăn đủ thứ thịt đến cả thịt người, thần dân không chịu nỗi nên làm phản. Cuối cùng vua phải mất nước, chịu khổ não lớn. Đại huệ! Thích đề hoàn nhân đã ở địa vị vua trời, do tập khí ăn thịt đời trước còn lại, nên biến làm chim ưng săn đuổi một con bồ câu. Ta lúc ấy làm vua tên Thi tỳ (Sivin), thương xót bồ câu nên tự cắt thịt mình để thế mạng cho nó.

Đại huệ! Tập khí còn lại của Đế thích còn làm khổ chúng sinh, huống gì những kẻ ăn thịt thường xuyên không biết hổ thẹn. Ăn thịt đã tự hại còn hại người, vì thế Bồ tát không nên ăn thịt. Đại huệ! xưa có ông vua cỡi ngựa đi săn, ngựa sợ chạy vào núi hiểm, chốn không người ở, cũng không có lối ra. Vua gặp một sư tử cái cùng nó hành dâm sinh nhiều con. Trong số con có một trưởng giả rất giàu có tên Ban túc, về sau làm vua thống lĩnh 7 ức nhà, vì quen thói ăn thịt nên không phải thịt thì không ăn. Ban đầu ăn thú vật sau đến ăn người, sinh con trai con gái đều là quỷ la sát, chết tái sinh làm sư tử, sài lang, cọp beo, chim điêu, chim thứu v.v.. muốn cầu được thân người còn không được, nói gì đến cầu thoát sinh tử đạt Niết bàn. Đại huệ! Ăn thịt có vô lượng lỗi lầm tai hại như thế, nên chấm dứt ăn thịt sẽ được công đức lớn. Kẻ phàm ngu không biết những tổn hại của sự ăn thịt và lợi ích của không ăn. Bởi thế nay ta vì ngươi mà nói rõ. Bất cứ cái gì là thịt đều không nên ăn. Đại huệ ! Người ta sát sinh phần lớn là do có người ăn thịt, nếu không người ăn thì cũng không có việc giết; bởi thế ăn thịt cũng có tội như giết. Quái lạ cho người đời tham đắm vị thịt, thịt người còn ăn huống là thịt chim thú. Vì tham ăn ngon, chúng đặt ra đủ cách giăng lưới bày bẫy khắp nơi, loài dưới nước, loài ở trên đất, loài bay trên không đều bị giết hại, nếu không tự mình ăn thì cũng đem bán để lấy tiền.

Đại huệ ! Thế gian có những kẻ không lòng thương xót, chuyên làm việc tàn bạo như quỷ la sát; khi thấy chúng sinh thân hình béo tốt là nghĩ đến thịt, và bảo "Con vật này ăn được đấy." Đại huệ ! Thế gian không có thứ thịt nào không do mình giết hay người giết, lòng mình không nghi là nó bị giết (để có thể ăn được.) Do nghĩa này mà ta cho phép thanh văn ăn thứ thịt như thế. Đại huệ ! Đời sau có những kẻ ngu si xuất gia trong pháp luật của ta, giảng quấy giới luật, làm loạn chính giáo, phỉ báng ta với lời nói ta cho phép ăn thịt và chính ta cũng đã từng ăn. Đại huệ ! Nếu ta cho phép thanh văn ăn thịt, tức ta không phải người an trú tâm từ, người tu quán hạnh, người hành đầu đà, người đi nơi đại thừa; làm sao có thể khuyên thiện nam tín nữ nên xem chúng sinh như con một, nên dứt ăn tất cả thịt? Đại huệ! Có chỗ ta nói cho ăn ba thứ tịnh nhục, đấy là để dần dần cấm hẳn, khiến dễ tu học. Nay trong kinh này, tất cả thịt của con vật tự chết hay bị giết, đều không được ăn. Đại huệ ! Ta chưa bao giờ cho phép đệ tử ăn thịt, cũng không đang cho phép, cũng không sẽ cho phép.

 

Đại huệ ! Tất cả sự ăn thịt đối với người xuất gia đều là bất tịnh.

Đại huệ ! Nếu có kẻ ngu si phỉ báng ta bằng cách nói Như lai cho phép ăn thịt và chính Như lai cũng đã có ăn, nên biết kẻ ấy bị ác nghiệp buộc ràng, sẽ bị đọa vào những chỗ không lợi lạc. Đại huệ ! Các thánh đệ tử còn không ăn những thứ đoàn thực của phàm phu, huống gì thịt vốn là thức ăn dơ uế. Đại huệ ! Thanh văn duyên giác bồ tát còn chỉ ăn pháp thực (dharmàhàra) huống gì Như lai. Đại huệ ! Pháp thân Như lai không phải là thân ô tạp. Như lai đã dứt trừ hết phiền não, tẩy sạch hết tập khí, khéo thanh lọc tâm tuệ, đại bi bình đẳng quán khắp chúng sinh như con một; há lại cho phép đệ tử thanh văn ăn thịt con ta sao? Huống nữa là tự ta ăn. Nói như vậy là chuyện không có.

Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng:

Đều từng làm thân thuộc

Do các uế mà thành

Làm khiếp sợ chúng sinh

Nên không được ăn thịt

Tất cả các loại thịt

Hành tỏi, các thứ rượu

Những vật bất tịnh ấy

Người tu hành lìa xa

Lại thường lìa dầu thoa

Cùng giường có thủng lỗ

Vì các côn trùng nhỏ

Trong đó rất sợ hãi

Ăn (thịt) sinh phóng dật

Phóng dật sinh tà giác

Tà giác sinh tham lam

Bởi vậy không nên ăn

Vì tà giác sinh tham

Tâm bị mê vì tham

Tâm mê tăng ái dục

Sinh tử không giải thoát

Vì lợi sát chúng sinh

Lấy tiền ra mua thịt

Cả hai đều ác nghiệp

Chết đọa ngục gào thét

Không thấy nghe nghi giết

Ba thứ ấy gọi tịnh

Vì thịt ấy không có

Kẻ ăn ta quở trách

Lại cùng ăn nuốt nhau

Chết đọa vào ác thú

hôi dơ và si cuồng

Bởi thế không nên ăn

thợ săn, chiên đà la

Đồ tể, la sát bà

Sinh trong các hạng ấy

Là quả báo ăn thịt

Đã ăn không hổ thẹn

Đời đời bị si cuồng

Chư Phật cùng Bồ tát

Thanh văn đều nghi ghét

Tượng kiếp (Hastikakshya) cùng Đại vân (Mahàmegha)

Niết bàn, ương quật ma (angulimàlika)

Cùng lăng già kinh này

Ta đều bảo dứt thịt

Trước nói kiến, văn, nghi

Để dứt hết thảy thịt

Vì ác tập cho nên

Kẻ ngu vọng phân biệt

Như tham ngăn giải thoát

Các thịt cũng như thế

Nếu người có ăn thịt

Không thể vào thánh đạo

Chúng sinh đời vị lai

Nói ngu si về thịt

Nói "đây tịnh không tội

Phật cho chúng ta ăn."

Tịnh thực còn (xem) như thuốc

Như đói ăn thịt con

Cho nên kẻ tu hành

Biết lượng đi xin ăn

Ăn thịt trái giải thoát

Cùng trái biểu tượng thánh

Khiến chúng sinh sợ hãi

Cho nên không được ăn

Kẻ an trú từ tâm

Thường phải nên xa lìa

Sư tử và hổ lang

Ăn thịt sinh trong đó

Nếu các thứ rượu thịt

Hết thảy đều không dùng

Sẽ sinh dòng hiền thánh

Thịnh vượng, đủ trí tuệ.

 

 

CHƯƠNG IX
ĐÀ LA NI

(Dhàranìparivatro nàma Navamah)

 

Phật dạy Đại huệ Bồ tát đại hữu tình:

Đại huệ ! Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai vì muốn ủng hộ người thọ trì kinh này, nên diễn nói chú lăng già. Nay ta cũng nói chú ấy, ông nên thọ trì.

Liền nói bài chú:

"Đát điệt tha, đổ tra, đổ tra, đổ tra, đổ tra, bát tra. bát tra, cát tra cát tra, a ma lệ, a ma lệ, tỳ ma lệ, tỳ ma lệ, nễ mế nế mế, hê mế hê mế, phược mế phược mế, cát lệ cát lệ, yết ra cát lệ, a tra mạt tra, chiết tra đốt tra, kỳ nhã tra tát phổ tra, cát địa, lạt địa bạt địa, hê mế, hê mế, đệ mế, chiết lệ chiết lệ, bát lị bát lị, hạn đệ tỳ đệ, án chiết mãn chế, đỗ trà rị đỗ trà rị, bát trà rị, át kế át kế, hê mế hê mế, đổ đổ đổ đổ, lổ lổ lổ lổ, đổ đổ đổ đổ, hổ đổ hổ đổ, hổ đổ hổ, ta bà ha."

(Tadyathà tutte tutte vutte vutte patte patte katte katte amale amale vimale vimale nime nime hime hime vame vame kale kale atte matte vatte tuttle jnette sputte katte katte latte patte dime dime cale cale pace pace bandhe bandhe ance mance dutare dutare patare patare arkhe arkhe sarkhe sarkhe cakre cakre dine dine hime hime tu tu tu tu du du du du ru ru ru ru phu phu phu phu svàha)

Đại huệ ! Trong đời vị lai, nếu có người thiện nam thiện nữ thọ trì đọc tụng, vì người khác mà nói đà la ni này, nên biết những người ấy không bị tất cả người, phi nhân, quỷ thần v.v.. động tới. Nếu có người bỗng gặp chuyện dữ, mà tụng niệm cho người ấy 108 biến chú này, thì ác ma liền bỏ chạy. Đại huệ, ta lại nói cho ông Đà la ni này nữa. (Đức Phật liền nói bài chú):

Đát điệt tha, bát đầu ma đệ bệ, bát đầu mế hế, nê hế mễ hế nê, lệ chủ la chủ lệ, hổ lệ hổ la hổ lệ, sấu lệ sấu lệ, bả lệ bả la bả lệ, sấn đệ tần đệ, bạn thệ mạt đệ, ni la ca lệ, sa bà ha.

(Tadyathà- padma padmadeve - hime hini hine - cu cule culu cule - phale phula phule - yule ghule yula yule - ghule ghula ghule - pale pala palemunce cchinde bhinde bhannje marde pramarde dikakare svàhà)

Đại huệ ! Nếu có thiện nam thiện nữ thọ trì đọc tụng, vì người diễn nói đà la ni này, thì sẽ không bị trời, rồng, dạ xoa, nhân và phi nhân v.v.. cùng các ác quỷ thần làm hại. Ta vì muốn cấm chỉ các loài la sát mà nói thần chú này. Người trì chú này cũng như thọ trì tất cả bộ kinh Nhập lăng già vậy.

 

 

CHƯƠNG X
KỆ TỤNG - PHẦN THỨ NHẤT

Bấy giờ Thế Tôn muốn nói lại các nghĩa rộng trong tu đa la (kinh) này nên nói bài kệ:

Các pháp không chắc thật

Đều do phân biệt sinh

Vì phân biệt là không

Bị phân biệt không có

Do hư vọng phân biệt

Mà có các thức sinh

Tám, chín thức các món

Như sóng lớn trong biển

Tập khí thường tăng trưởng (1)

Tâm chuyển theo cảnh giới

Như sắt với nam châm

Tính chúng sinh sở y

Xa lìa các suy lường

Cùng lìa trí, sở tri

Chuyển y đặng giải thoát

Được như huyễn tam muội

Siêu quá nơi thập địa

Khi quán thấy tâm vương

Tưởng thức đều xa lìa

Khi tâm đã chuyển y

Ấy gọi là thường trụ

Ở nơi Liên hoa cung

Khởi ra các huyễn cảnh

Đã ở cung ấy rồi

Tự tại không dụng công

Lợi ích cho chúng sinh

Như mầu ngọc ma ni

Không hữu vi, vô vi

Chỉ trừ vọng phân biệt

Phàm ngu mê chấp giữ

Như thạch nữ mộng con

Nên biết rằng linh hồn

Uẩn, giới, các thứ duyên

Các kiến hữu, phi hữu

Đều không, vô tự tính

Ta dùng phương tiện nói

Nhưng thật không có tướng

Phàm phu vọng chấp giữ

Năng tướng cùng sở tướng

Tất cả biết cùng không

Tất cả không tất cả

Do phàm ngu phân biệt

Phật không giác tự, tha

Các pháp như mộng huyễn

Không sinh, không tự tính

Vì đều là tính không

Không có, bất khả đắc

Ta chỉ nói một tính

Lìa nơi vọng kế chấp

Tự tính không có hai

Chỗ làm của các Thánh

Như tứ đại bệnh suy

Khắp cõi thấy hoa đốm

Cái thấy đó không thực

Thế gian cũng như vậy

Như huyễn hiện các tượng

Cây cỏ cùng ngói sỏi

Mà thật không có gì

Các pháp cũng như vậy

Không năng thủ sở thủ

Không trói không bị trói

Như huyễn như ảo tượng

Như mộng như hoa đốm

Nếu muốn thấy chân thật

Hãy lìa phân biệt, thủ

Nên tu quán chân thật

Tất không Phật, không nghi

Thế gian đồng như mộng

Sắc, của cải đều thế

Nếu thấy được như vậy

là tối tôn trên đời

Ba giới do tâm khởi

Do mê hoặc thấy có

Lìa vọng không thế gian

Biết rồi chuyển nhiễm y

Sở kiến của phàm ngu

Vọng chấp có sinh diệt.

Bậc trí quán như thật

Không sinh cũng không diệt

Thường hành "vô phân biệt"

Xa lìa tâm, tâm pháp

Trú trời sắc cứu cánh

Lìa các chỗ lỗi lầm

Nơi đấy thành chính giác

Đủ thần thông tự tại

Cùng các định thù thắng

Hóa hiện nơi thành này

Hóa thân vô lượng ức

Du khắp hết các cõi

Khiến ngu phu được nghe

Như hương, khó nghĩ lường

Xa lìa đầu, giữa cuối

Lại xa lìa hữu, vô

Không nhiều mà hiện nhiều

Không động mà biến khắp

Nói trong thân chúng sinh

Tính chân bị che lấp

Mê hoặc thành huyễn có

Không phải huyễn bị mê

Do tâm mê hoặc nên

Hết thảy đều thành có

Vì chúng trói buộc nhau

Tạng thức sinh thế gian

Như thế các thế gian

Chỉ có giả hiện bày

Các kiến như thác chảy

Có ra pháp và người

Nếu biết được như thế

Tức là chuyển sở y

Làm con ta đích thực

Thành tựu pháp tùy thuận

Do ngu phu phân biệt

Pháp cứng, ẩm, ấm, động

Giả danh không có thật

Lại không tướng, sở tướng

Thân hình và các căn

Đều do tám vật thành

Phàm ngu chấp sắc tướng

Thân kia bị lao lung

Phàm ngu vọng phân biệt

Nhân duyên hòa hiệp sinh

không rõ tướng chân thật

Trôi lăn trong ba cõi

Các chủng tử trong thức

Hay hiện cảnh giới tâm

Do phàm ngu phân biệt

Vọng chấp nơi hai thủ

Vô minh cùng ái nghiệp

Các tâm do đó sinh

Vì vậy ta biết rõ

Đó là tính y tha

Vọng phân biệt có vật

Mê hoặc các tâm pháp

Phân biệt kia đều không

Mê vọng chấp là có

Tâm bị các duyên buộc

Sinh khởi nên chúng sinh

Nếu xa lìa các duyên

Ta nói không sở kiến

Đã lìa hết các duyên

Tự tướng và phân biệt

Trong thân không sinh khởi

Ta gọi là vô vi

Tâm sở chúng sinh khởi

Năng thủ và sở thủ

Sở kiến đều vô tướng

Phàm ngu vọng phân biệt

hiển thị A lại gia

Tạng thức rất thù thắng

Lìa năng thủ sở thủ

Ta nói là chân như

Trong uẩn không có người

Không ngã, không chúng sinh

Sinh chỉ là thức sinh

Diệt chỉ là thức diệt

Như tranh có cao thấp

Tuy thấy mà không thật

Các pháp cũng như vậy

Tuy thấy mà không có

Như thành càn thát bà

Lại như bóng nắng lòa

Sở kiến thường như vậy

Trí quán không thể có

Nhân duyên cùng thí dụ

Lấy đó mà lập tôn

Càn thành, mộng, vòng lửa

Ảo tượng, ánh mặt trời

Nơi lửa, và mao luân

Lấy đó làm ví dụ

Để bày nghĩa vô sinh

Thế phân biệt đều không

Mê hoặc, như huyễn mộng

Thấy các loài không sinh

Ba cõi không sở y

Trong ngoài cũng như vậy

Thành tựu vô sinh nhẫn

Được như huyễn tam muội

Cùng với Ý sinh thân

Đủ các món thần thông

Các lực và tự tại

Các pháp vốn vô sinh

Không, không có tự tính

Mê hoặc các nhân duyên

Nên nói có sinh diệt

Ngu phu vọng phân biệt

Lấy tâm hiện ra tâm

Cùng hiện các ngoại sắc

Mà thật không có gì

Như định lực quán thấy

Tượng Phật cùng khớp xương

Phân chẻ đến đại chủng

Giả bày ra thế gian

Thân, tài sản, chỗ ở

Ba pháp làm sở thủ

Ý thủ và phân biệt

Ba pháp làm năng thủ

Mê hoặc cùng vọng kế

Là phân biệt năng, sở

Chỉ theo văn tự, cảnh

Mà không thấy chân thật

Hành giả lấy tuệ quán

Các pháp không tự tính

Khi ấy trụ vô tướng

Hết thảy đều dứt bặt

như lấy mực vẽ gà

Kẻ vô trí vọng thủ

Thật không có ba thừa

Phàm ngu không hiểu được

Nếu thấy các thanh văn

Cùng với bích chi phật

Đều là chỗ hóa hiện

Của Bồ tát đại bi

Ba cõi chỉ là tâm

Phân biệt hai tự tính

Chuyển y lìa nhân pháp

Ấy tức là chân như

Nhật nguyệt ánh đèn lửa

Đại chủng và ma ni

Không phân biệt tác dụng

Chư phật cũng như vậy

Các pháp như mao luân

Xa lìa sinh, trụ, diệt

Lại lìa thường, vô thường

Nhiễm tịnh cũng như thế

Như bôi thuốc vào mắt

Thấy đất thành sắc vàng

Mà thật trong đất kia

Vốn không có tướng vàng

Kẻ ngu cũng như vậy

Tâm mê loạn vô thỉ

Vọng chấp các pháp thật

Như huyễn như ảo tượng

Nên quán một chủng tử

Cùng phi chủng đồng ẩn

Một chủng hết thảy chủng

Gọi các pháp của tâm

Các chủng tử là một

Chuyển y thành phi chủng

Bình đẳng đồng pháp ấn

Tất đều không phân biệt

Tất cả những chủng tử

Làm nhân cho các thức

Sinh các sự phiền não

Gọi là các chủng tử

Quán tự tính các pháp

Mê hoặc không bỏ đời

Tính vật vốn vô sinh

Biết rõ tức giải thoát

Bậc định quán thế gian

Các sắc do tâm khởi

Vô thỉ tâm mê hoặc

Thật không có sắc, tâm

Như huyễn và Càn thành

Mao luân và ảo tượng

Không có mà hiện có

Các pháp cũng như vậy

Hết thảy pháp không sinh

Chỉ do mê hoặc thấy

Đã do mê vọng sinh

Ngu vọng chấp có hai

Do các thứ tập khí

Sinh các làn sóng tâm

Nếu khi tập khí đoạn

Sóng tâm không còn khởi

Tâm duyên các cảnh khởi

Như tranh nương vào vách

Nếu ở giữa hư không

Làm sao mà họa được

Nếu duyên một ít phần

Khiến tâm kia được sinh

Tâm đã do duyên khởi

Nghĩa duy tâm không thành

Tính tâm vốn thanh tịnh

Cũng như hư không lặng

Đem tâm mà chấp tâm

Do tập khí không khác

Chấp trước tự tâm hiện

Do tâm mà sinh khởi

Sở kiến không ngoài tâm

Nên nói rằng duy tâm

Tạng thức gọi là tâm

Tư lương lấy làm ý

Hay rõ các cảnh giới

Ấy tức gọi là thức

Tâm thường là vô ký (avyàktra)

Ý đủ hai thứ hành

Hiện tại thức đầy đủ

Các pháp thiện, bất thiện

Tu chứng không nhất định

Các địa vào cõi nước

Vượt ra ngoài tâm lượng

An trú không quả tướng

Các sở kiến hữu, vô

Cùng với các món tướng

Đều là do phàm phu

Điên đảo vọng chấp trước

Bậc trí lìa phân biệt

Sự vật đã trái nhau

Do tâm không sắc tướng

Bởi thế vô phân biệt

Các căn đều như huyễn

Cảnh giới thì như mộng

Năng tác cùng sở tác

Hết thảy đều phi hữu

Tục đế có tất cả

Đệ nhất nghĩa tuyệt không

Vô tính của các pháp

Gọi là đệ nhất nghĩa

Trong chỗ vô tự tính

Nhân vì các ngôn thuyết

Nên có các vật khởi

Ấy gọi là tục đế

Nếu không có ngôn thuyết

Các vật khởi cũng không

Trong tục đế không có

Chỉ có lời, không sự

Pháp điên đảo hư vọng

Thật ra không có gì

Nếu đảo là thật có

Thì vô không tự tính

Vì hữu không có tính

Mà pháp điên đảo kia

Hết thảy các vật có

đều là bất khả đắc

Ác tập huân nơi tâm

Hiện ra đủ các tướng

Mê hoặc nói ngoài tâm

vọng thủ các sắc hình

Phân biệt vốn là không

Nên phân biệt đoạn được

Vô phân biệt sẽ thấy

Thật tính, chứng chân không

Vô minh huân nơi tâm

Nên thấy các chúng sinh

Như các voi ngựa huyễn

Cùng cây lá và vàng

Như kẻ bị đau mắt

Mê hoặc thấy mao luân

Phàm phu cũng như vậy

Vọng thủ các cảnh giới

Phân biệt, sở phân biệt

Cùng người khởi phân biệt

Chuyển, sở chuyển, nhân chuyển

Do đó sáu giải thoát

Do nơi vọng kế nên

Không địa, không các đế

Lại không có sát độ

Hóa Phật và nhị thừa

Tâm khởi hết thảy pháp

Hết thảy xứ và thân

Tâm tính thật vô tướng

Vô trí thủ các món

Phân biệt mê hoặc tướng

Gọi là y tha khởi

Trong tướng có các tên

Ấy là vì vọng kế

Các duyên pháp hòa hợp

Phân biệt thành danh, tướng

Tất cả đều không sinh

Gọi là viên thành thật

Mười phương các sát độ

Trong chúng sinh, Bồ tát

Bao nhiêu pháp, Báo Phật

Hóa thân cùng biến hóa

Đều từ cực lạc giới

Của Di đà mà ra

Ở trong kinh Phương quảng

Nên biết nghĩa bí mật

Những gì Phật tử nói

Cùng của Đạo sư dạy,

Đều do Hóa thân nói

Không phải Thật Báo Phật

Các pháp không từng sinh

Cũng không phải không có

Như huyễn, lại như mộng

Như hóa, như Càn thành

Các pháp do tâm khởi

Các pháp do tâm thoát

Tâm khởi không cách khác

Tâm diệt cũng như thế

Vì chúng sinh phân biệt

Các tướng hư vọng hiện

Duy tâm thật không cảnh

Lìa phân biệt, giải thoát

Do phân biệt, hí luận

Tích tập từ vô thỉ

Vì các ác tập huân

Khởi cảnh hư vọng này

Các pháp đều không sinh

do tự tính vọng kế

Y chỉ nơi duyên khởi

Chúng sinh mê phân biệt

Phân biệt không tương ưng

Thì y tha cũng dứt

Sở trú rời phân biệt

Chuyển y tức chân như

Chớ vọng kế hư vọng

Vọng kế tức không thật

Mê hoặc vọng phân biệt

Năng, sở thủ đều không

Phân biệt thấy ngoại cảnh

Ấy là tính vọng kế

Do hư vọng kế ấy

Duyên khởi tự tính sinh

Tà thấy các ngoại cảnh

Không cảnh chỉ do tâm

Quán sát đúng như lý

Năng, sở thủ đều diệt

Cảnh ngoài thật không có

Tập khí nhiễm ô tâm

Mà chuyển có tợ cảnh

Khi diệt hai phân biệt

Trí tịnh thuộc chân như

Khởi ra cảnh vô ảnh

Cảnh thánh khó nghĩ bàn

Do cha mẹ hòa hiệp

Như gia ua trong bình

A lại gia, ý đủ

Khiến tăng trưởng xích, bạch

Bế thi (pesì) và Trù bào (Ghanàrbuda)

Các thứ uế nghiệp sinh

Gió nghiệp tăng bốn đại

sinh ra như trái chín

Năm cùng năm và năm

Sang khiếu có chín lỗ

Móng, răng, lông đầy đủ

Đủ rồi bèn sinh ra

Mới sinh như phân trùng

Lại như người tỉnh ngủ

Mắt mở ra thấy sắc

Phân biệt dần tăng trưởng

Phân biệt quyết xong rồi

Các môi răng hòa hiệp

Bắt đầu phát nói năng

Như giống chim anh vũ

Thuận chúng sinh ý lạc

Ta lập ra đại thừa

Không phải chỗ ác kiến

Ngoại đạo không thể thọ

Thừa do ta tự chứng

Không thể suy lường được

Sau khi Phật diệt độ

Xin nói ai thọ trì

Đại huệ ! Ông nên biết

Sau khi ta Niết bàn

Đời vị lai sẽ có

Kẻ thọ trì pháp ta

Trong xứ Nam Ấn độ

Tỳ kheo danh đức lớn

Quyết hiệu là Long thọ

Hay phá luận hữu, vô

Trong thế gian làm rõ

Vô thượng đại thừa ta

được sơ hoan hỉ địa

Vãng sinh xứ an lạc

Trong nghĩa lý duyên khởi

Hữu vô đều không thành

Trong duyên tưởng tượng vật

Phân biệt ra có, không

Kiến ngoại đạo như vậy

Xa lìa pháp của ta

Danh tự của các pháp

Đã nối nhau nhiều đời

Tập (khí) quá khứ, hiện tại

Xoay vần cùng phân biệt

Nếu không nói ra tên

Tất thế gian mê hoặc

Vì muốn trừ mê hoặc

Nên lập ra danh ngôn

Kẻ ngu phân biệt pháp

Mê hoặc nơi danh tự

Mê hoặc các duyên sinh

Ấy là ba phân biệt

Chấp bất sinh bất diệt

Tự tính như hư không

Tự tính vốn không có

Đấy là tướng vọng kế

Như huyễn, bóng, ảo tượng

Mộng, bóng gương, vòng lửa

Như tiếng vang, Càn thành

Ấy là y tha khởi

Chân như, không, bất nhị

Thật tế cùng pháp tính

(Bhùtakoti, Dharmatà)

Đều không có phân biệt

Ta nói là viên thành

Ngữ ngôn thuộc về tâm

Hư vọng sa nhị biên

Tuệ phân biệt thật đế

Là tuệ không phân biệt

Nơi người trí mới hiện

Nơi người ngu không hiện

Cái hiện nơi trí ấy

Hết thảy pháp không tướng

Như chuỗi đeo vàng giả

Kẻ ngu cho là vàng

Các pháp cũng như vậy

Ngoại đạo vọng suy lường

Mọi pháp vô thủy chung

Ở nơi tướng chân thật

Thế gian đều vô tác

Vọng kế không hiểu được

Các pháp trong quá khứ

Vị lai cùng hiện tại

Hết thảy pháp như thế

Tất cả đều không sinh

Do các duyên hòa hợp

Nên nói có các pháp

Nếu lìa sự hòa hợp

Không sinh cũng không diệt

Mà các pháp duyên khởi

Một, khác đều không có

Lược nói là không sinh

Nói rộng là không diệt

Một đằng "bất sinh không"

Một đằng là "sinh không"

Bất sinh không là thắng

Sinh không tất diệt hoại

chân như, không, thật tế

Niết bàn cùng pháp giới

Các thứ ý sinh thân

Ta nói là dị danh

Nơi các kinh luật luận

Khởi phân biệt về tịnh

Nếu không hiểu vô ngã

Là theo lời, không nghĩa

Chúng sinh vọng phân biệt

Sở kiến như sừng thỏ

Phân biệt tức mê hoặc

Như thú khát đuổi bóng

do nơi vọng chấp trước

Mà khởi ra phân biệt

Nếu lìa nhân vọng kế

Tức không khởi phân biệt

Đại phương quảng sâu xa

Biết các cõi tự tại

Ta vì Bồ tát nói

Không phải vì thanh văn

Ba cõi không, vô thường

Xa lìa ngã, ngã sở

Ta vì các Thanh văn

Nói tổng tướng như thế

Không trước hết thảy pháp

Đi một mình tịch tịnh

Tư niệm Bích chi quả

Ta vì duyên giác nói

Thân là y tha khởi

Mê hoặc không tự thấy

Phân biệt tự tính ngoài

Mà khiến tâm vọng khởi

Nhờ chứng, nhờ gia trì

Do sinh vào các loài

Do có được trong mộng

Ấy bốn thứ thần thông

Thần thông được trong mộng

Cùng do oai lực Phật

Hay do sinh các loài

Đều không phải "báo đắc"

Do tập khí huân tâm

Nên bóng tợ-vật khởi

Kẻ phàm ngu chưa hiểu

Cho nên nói là sinh

do nơi vọng phân biệt

Khi còn thấy ngoại tướng

Thì còn tăng thêm vọng

Vì không thấy tâm mê

Vì sao nói có sinh

Mà không nói sở kiến

Khi không vật mà thấy

Nói cho ai? Vì sao?

Thể tâm vốn thanh tịnh

Ý cùng với các thức

Do tập khí thường huân

Mà làm các uế loạn

Tạng thức xa lìa thân

Ý bèn tìm đường nẻo

Thức bày tợ cảnh giới

Thấy rồi tham nắm giữ

Sở kiến đều do tâm

Ngoại cảnh bất khả đắc

Nếu tu quán như thế

Xả vọng đạt chân như

Cảnh giới của định chứng

Nghiệp cùng oai lực Phật

Ba thứ bất tư nghì

Chỗ khó lường của trí

Quá khứ, vị lai, ngã

Hư không cùng Niết bàn

Ta tùy thế tục nói

Chân đế lìa văn tự

Nhị thừa cùng ngoại đạo

Cùng y chỉ các kiến

Mê hoặc lý duy tâm

Vọng phân biệt ngoại cảnh

La hán, Bích chi Phật

Cùng với trí giác Phật

Chủng tử đã thành tựu

Mộng thấy Phật quán đảnh

Huyễn tâm tịch tịnh đến

Vì sao nói hữu vô

Ở đâu, nói cho ai?

Cớ gì, nguyện Phật giải

Vì kẻ mê duy tâm

Ta nói huyễn, hữu, vô

Khi sinh, diệt tương ưng

Tướng sở tướng bình đẳng

Ý thức tên "Phân biệt"

Cùng với năm thân thức

Như bóng hình trôi chảy

Từ tâm khởi chủng tử

Nếu tâm cùng với ý

Các thức thân không khởi

Thì được ý sinh thân

Lại được đến Phật địa

Các duyên cùng uẩn, giới

Tự tướng của nhân, pháp

đều do tâm bày ra

Như mộng cùng mao luân

Quán thế gian huyễn mộng

Y chỉ nơi chân thật

Chân thật lìa các tướng

Lại lìa nhân tương ưng

Cảnh chứng của bậc thánh

Thường trú nơi vô niệm

Mê hoặc nhân tương ưng

Chấp thế gian làm thật

Hết thảy hí luận diệt

Thì mê hoặc không sinh

Mê theo pháp, phân biệt

Si tâm thường hiện khởi

Các pháp không, vô tính

Nói thường hay vô thường

Là kiến của "sinh luận" (utpàdavàdin)

Không phải vô sinh luận (anutpàdavàdin)

Nhất, dị, câu, bất câu

Tự nhiên cùng tự tại

Thời,vi trần, thắng tính

Duyên, phân biệt thế gian

Thức là giống sinh tử

Có giống nên có sinh

Như họa nương nơi tướng

Biết rõ tức liền diệt

Thí như thấy người huyễn

Mà có sinh tử huyễn

Phàm ngu cũng như vậy

Do si có buộc, mở

Hai thứ pháp trong, ngoài

Cùng các nhân duyên kia

Kẻ tu hành quán sát

Đều trụ nơi vô tướng

Tập khí không lìa tâm

Cũng không cùng với tâm

Tuy tập khí trói buộc

Tướng tâm không sai khác

Tâm như áo sắc trắng

Bị tập ý thức nhiễm

Cấu tập làm ô uế

Khiến tâm không hiện rõ

Ta nói như hư không

Không hữu cũng không vô

Tạng thức cũng như vậy

Hữu, vô đều xa lìa

Nếu ý thức chuyển y

Thì tâm lìa cấu loạn

Ta nói tâm là Phật

Đã rõ hết thảy pháp

Đoạn dứt ba tương tục

Lại lìa nơi bốn cú

Hữu, vô đều xa lìa

Các hữu (bhava) thường như huyễn

Bảy địa do tâm khởi

Nên có hai tự tính

Hai địa cùng Phật địa

Chính là viên thành thật

Dục, sắc, vô sắc giới

Cùng với cõi Niết bàn

Đều ở nơi thân này

Đều là tâm cảnh giới

Khi còn có sở đắc

Thì còn mê hoặc khởi

Nếu biết tự tâm khởi

Thì mê hoặc không sinh

Ta lập hai thứ pháp

Các tướng và thực chứng

Dùng đủ thứ nguyên tắc

Mà phương tiện lập thuyết

Thấy các thứ danh, tướng

Là mê hoặc, phân biệt

Nếu lìa xa danh tướng

Là tính tịch cảnh thánh

Do phân biệt năng, sở

Tất có tướng vọng kế

Nếu lìa phân biệt kia

Tự tính là chỗ thánh

Tâm đã được giải thoát

Là chân lý thường tồn

Chủng tính và pháp tính

Chân như lìa phân biệt

Đã có thanh tịnh tâm

Thì có tạp nhiễm hiện

Không tịnh tức không nhiễm

Là chân tịnh của thánh

Thế gian do duyên sinh

Tăng trưởng thêm phân biệt

Quán nó như huyễn mộng

Khi ấy tức giải thoát

Các thứ ác tập khí

Cùng với tâm hòa hiệp

Chúng sinh thấy ngoại cảnh

Không thấy pháp tính tâm

Tâm tính vốn thanh tịnh

Không sinh các mê hoặc

Mê do ác tập khởi

Cho nên không thấy tâm

Mê hoặc tức là chân

Chân không ở chỗ khác

Không nơi hành, phi hành

Cũng không thấy nơi khác

Nếu quán các hữu vi

Xa lìa tướng, sở tướng

Vì đã lìa các tướng

Thấy thảy đều là tâm

An trụ nơi duy tâm

Không phân biệt ngoại cảnh

Trú sở duyên chân như

Vượt quá ngoài tâm lượng

Khi siêu đến tâm lượng

Cũng siêu đến vô tướng

Đã trú ở vô tướng

Không thấy cả đại thừa

Hành tịch, không dụng công

Tịnh tu các đại nguyện

Trí tối thắng vô ngã

Vô tướng nên không thấy

Hãy quán tâm sở hành

Lại quán trí sở hành

Quán thấy tuệ sở hành

Nơi tướng không mê hoặc

Khổ đế thuộc về tâm

Tập là cảnh của trí (jnàna)

Diệt, đạo và Phật địa

Đều là cảnh của tuệ

Đắc quả và Niết bàn

Cùng với tám thánh đạo

Khi biết các pháp ấy

Là trí Phật thanh tịnh

Nhãn căn cùng sắc cảnh

Không, minh và tác ý

Nên khiến từ tạng thức

Sinh nhãn thức chúng sinh

Năng, sở thủ, thủ giả

Mỗi thứ đều không có

Không nhân vọng phân biệt

Ấy là kẻ vô trí

Danh, nghĩa không sinh nhau

Riêng danh nghĩa cũng thế

Do nhân, vô nhân sinh

Đều không ngoài phân biệt

Vọng nói trụ chân đế

Tùy kiến giải bày nói

Một tính, năm không thành

Xa lìa nơi đế nghĩa

Hí luận về hữu, vô

Nên vượt các ma ấy

Khi đã thấy vô ngã

Không vọng cầu các cõi

Chấp tác giả là thường

Chú thuật hưng tranh luận

Chân đế lìa ngôn thuyết

Mà thấy pháp tịch tịnh

Do nương vào tạng thức

Mà có mạt na chuyển

Dựa vào tâm và ý

Mà có các thức sinh

Các pháp hư vọng lập

Cùng tâm tính, chân như

Định giả quán như thế

Thông đạt tính duy tâm

Quán ý cùng tưởng, sự

Không nghĩ thường, vô thường

Cùng với sinh, bất sinh

Không phân biệt hai nghĩa

Do nơi A lại gia

Các thức đều sinh khởi

Trọn không nơi một nghĩa

Mà sinh hai món tâm

Do thấy duy tự tâm

Lìa không, lìa ngôn thuyết

Nếu không thấy tự tâm

Bị lưới tà kiến trói

Các duyên không từng sinh

Các căn không chỗ có

Không tham, không uẩn, giới

Tất không các hữu vi

Vốn không các nghiệp báo

Không tác không hữu vi

Xưa nay không chấp trước

Không buộc cũng không mở

Pháp hữu, vô, vô ký

Pháp, phi pháp, đều không

Không thời, không Niết bàn

Pháp tính bất khả đắc

Không Phật không chân đế

Không nhân cũng không quả

Không điên đảo, Niết bàn

Không sinh cũng không diệt

Lại không mười hai chi

Biên, vô biên không có

Hết thảy kiến đều đoạn

Ta nói là duy tâm

Phiền não nghiệp cùng thân

Quả sở đắc của nghiệp

Đều như huyễn như mộng

Như Càn thát bà thành

Vì trụ nơi duy tâm

Nên thấy có đoạn thường

Niết bàn không các uẩn

Không ngã cũng không tướng

Đã nhập vào duy tâm

Chuyển y được giải thoát

Do ác tập làm nhân

Ngoài hiện ra đại địa

Cùng với các chúng sinh

Duy tâm không thấy gì

Hình bóng, thân, tài sản

Do tập chúng sinh hiện

Tâm không là hữu, vô

Tập khí khiến không rõ

Cấu hiện ra trong tịnh

Không phải tịnh trong cấu

Như mây che hư không

Tâm không hiện cũng thế

Tính vọng chấp nói có

Nơi duyên khởi tất không

Vì vọng kế mê chấp

Duyên khởi không phân biệt.

Không sở tạo đều (là) sắc

Có sắc không sở tạo

Mộng, huyễn, ánh, Càn thành

Đều không phải được tạo.

Nếu nơi pháp duyên sinh

Nói thật cùng không thật

Kẻ ấy tất tin theo

Các kiến nhất cùng dị.

Thanh văn có ba hạng:

Nguyện sinh và biến hóa

Và lìa tham, sân si

Từ chính pháp sinh ra.

Bồ tát cũng ba hạng

Chưa có các Phật tướng

Vì nhớ nghĩ chúng sinh

Mà hiện hình tướng Phật

Các loại tâm chúng hiện

Đều từ tập khí sinh

Các loại hình và bóng

Như sao, mây, trời, trăng

Nếu đại chủng thật có

Sẽ có "sở-tạo" sinh

Vì đại chủng vô tính

Nên không tướng năng, sở

Đại chủng là năng tạo

Địa thủy là sở tạo

Đại chủng vốn vô sinh

Nên không sở-tạo-sắc

Sắc giả, thật các thứ

Cùng huyễn sở tạo sắc

Sắc mộng, sắc Càn thành

Sắc nắng là thứ năm

Năm hạng nhất xiển đề

Năm chủng tính cũng vậy

Ngũ thừa cùng phi thừa

Niết bàn có sáu loại

Các uẩn hai mươi bốn

Các sắc có tám món

Phật có hai mươi bốn

Phật tử có hai loại

Pháp môn trăm lẻ tám

Thanh văn có ba hạng

Các cõi Phật chỉ một

Một Phật cũng như vậy

Giải thoát có ba loại

Tâm lưu chú có bốn

Vô ngã có sáu thứ

Sở tri cũng có bốn

Xa lìa nơi tác giả

Cùng lìa các lỗi kiến

Trong tự chứng bất động

Là vô thượng đại thừa

Sinh cùng với bất sinh

Có tám thứ chín thứ

Một niệm cùng tiệm thứ

Chứng đắc chỉ có một

Vô sắc giới tám thứ

Thiền sai biệt có sáu

Các Phật tử, Bích chi

Xuất ly có bảy hạng

Ba cõi tất không có

Thường vô thường cũng không

Tác nghiệp và quả báo

Đều như chuyện trong mộng

Chư Phật vốn không sinh

Vì đệ tử Thanh văn

Tâm thường không thấy được

Các pháp đều như huyễn

Nên ở nơi các cõi

Từ Đâu suất nhập thai

Sở sinh và xuất gia

Không từ bào thai sinh

Vì chúng sinh lưu chuyển

Mà nói pháp Niết bàn

Các đế cùng các cõi

Tùy cơ khiến giác ngộ

Thế gian, các châu, rừng

Vô ngã, ngoại đạo, hành

Thiền, thừa, A lại gia

Quả, cảnh bất tư nghì

Các loài tinh tú, trăng

Các vua, các loài trời

Loài Càn thát, dạ xoa

Đều do nghiệp ái sinh

Biến-dị-tử khôn lường

Cũng cùng hiệp tập khí

Đến khi chết vĩnh tận

Lưới phiền não đã dứt

Tiền lúa cùng vàng bạc

Ruộng vườn và tôi tớ

Voi ngựa và trâu dê

Đều không nên nuôi giữ

Không nằm giường có lỗ

Không bôi bùn trát đất

Bát bằng vàng, bạc đồng

Đều không được nắm giữ

Ứng khí (vỏ) ốc, pha lê

Đất, đá, cùng bằng sắt

Đầy một lượng Ma kiệt

Tùy bát ta cho phép

Thường mặc màu thanh tịnh

Nhuộm các mảnh giẻ trắng

Bằng phân trâu, bùn, lá

Thành sắc áo ca sa

Con dao dài bốn ngón

Có hình nửa mặt trăng

Dùng để cắt vải áo

Kẻ tu hành được giữ

Chớ học các kỹ thuật

Lại không được mua bán

Nếu cần, sai tịnh nhân

Đấy là pháp ta dạy

Thường giữ gìn các căn

Khéo rõ nghĩa kinh luật

Không giao thiệp người tục

Ấy là bậc tu hành

Dưới cây trong hang núi

Nhà thô, trong mả mồ

Hang cỏ cùng đất trống

Kẻ tu hành nên trú

Trong mồ và chỗ khác

Ba y mang theo mình

Nếu khi thiếu áo mặc

Có kẻ cho nên nhận

Khi ra đi khất thực

Nhìn phía trước một tầm

Nhiếp niệm mà xin ăn

Cũng như ong hút mật

Chỗ có nhiều người nhóm

Có chúng tỳ kheo ni

Sinh sống với thế tục

Đều không nên khất thực

Các vua cùng con vua

Quan lớn, kẻ giàu sang

Kẻ tu hành khất thực

Đều không nên thân gần

Nhà có kẻ sinh và chết

Nhà bạn bè, bà con

Chỗ tăng ni hỗn tạp

Người tu hành không ăn

Trong chùa khói không dứt

Thường nấu các món ăn

Nếu vì mình mà nấu

Người tu hành không ăn

Hàng giả quán thế gian

Năng tướng cùng sở tướng

Đều xa lìa sinh diệt

Lại xa lìa hữu vô.

 

   


Trang Nhà
  |  Bài Mới  |  
Kinh Điển |  Thần Chú  |  Pháp Âm  |  Lịch Đại Tổ Sư
Hình Ảnh  |  Linh Tinh  |  Tự Điển  |  Lịch Trình  |  
Liên Lạc