III. PHẨM ĐỆ TỬ (1) ... XÁ LỢI PHẤT (2)
Lúc bấy giờ, Trưởng giả Duy Ma Cật nghĩ thầm rằng :
– Nay ta bịnh nằm ở giuờng, Thế Tôn là đấng Đại từ, lẽ đâu không đoái lòng thương xót !
Phật đã biết ý ông, liền bảo Xá Lợi Phất rằng:
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.
Xá Lợi Phất bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn ? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? - Nhớ lại trước kia, con từng ở trong rừng ngồi yên lặng (tọa thiền) dưới gốc cây, khi ấy ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng : “Thưa Ngài Xá Lợi Phất ? Bất tất ngồi sững đó mới là ngồi yên lặng. Vả chăng ngồi yên lặng là ở trong ba cõi mà không hiện thân ý, mới là ngồi yên lặng; không khởi diệt tận định(3) mà hiện các oai nghi, mới là ngồi yên lặng ; không rời đạo pháp mà hiện các việc phàm phu, mới là ngồi yên lặng ; tâm không trụ trong cũng không ở ngoài mới là ngồi yên lặng ; đối với các kiến chấp không động mà tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo mới là ngồi yên lặng; không đoạn phiền não mà vào Niết bàn(4) mới là ngồi yên lặng. Nếu ngồi được như thế là chỗ Phật ấn khả (chứng nhận) vậy”.
Bạch Thế Tôn, lúc ấy con nghe nói những lời đó rồi, im lặng không trả lời đặng, nên con không dám đến thăm bịnh ông.
MỤC KIỀN LIÊN (5)
Phật bảo Đại Mục Kiền Liên:
– Ông đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.
Mục Kiền Liên bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? Nhớ lại trước kia, con vào trong thành Tỳ Da Ly ở trong xóm làng nói Pháp cho các hàng cư sĩ nghe, lúc ấy ông Duy Ma Cật đến bảo con rằng : “Này Ngài Đại Mục Kiền Liên, nói Pháp cho bạch y cư sĩ, không phải như Ngài nói đó. Vả chăng nói Pháp phải đúng như pháp (xứng tánh) mà nói. Pháp không chúng sanh, lìa chúng sanh cấu(6); pháp không có ngã, lìa ngã cấu, Pháp không có thọ mạng, lìa sanh tử ; Pháp không có nhơn, làn trước làn sau đều dứt ; Pháp thường vắng lặng, bặt hết các tướng ; Pháp lìa các tướng, không phải cảnh bị duyên ; Pháp không danh tự, dứt đường ngôn ngữ ; Pháp không nói năng, lìa giác quán(7) ; pháp không hình tướng; như hư không; Pháp không hí luận, rốt ráo là không ; Pháp không ngă sở(8), lìa ngã sở ; Pháp không phân biệt, lìa các thức ; Pháp không chi so sánh, không có đối đãi ; Pháp không thuộc nhân, không nhờ duyên, Pháp đồng pháp tánh, khắp vào các Pháp ; Pháp tuy nơi như, không có chỗ tùy ; Pháp trụ thật tế(9), các bên (hữu, vô, thường, đoạn) không động được ; Pháp không lay động, không nương sáu trần(10) ; Pháp không tới lui, thường không dừng (trụ) ; Pháp thuận “không”, tùy “vô tướng”, ứng “vô tác”(11) ; Pháp lìa tốt xấu ; Pháp không thêm bớt ; Pháp không sanh diệt ; Pháp không chỗ về ; Pháp ngoài mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; Pháp không cao thấp : Pháp thường trụ không động ; Pháp lìa tất cả quán hạnh. Thưa Ngài Đại Mục Kiền Liên ! Pháp tướng như thế đâu có thể nói ư ?
Vả chăng người nói Pháp, không nói, không dạy, còn người nghe, cũng không nghe không được. Ví như nhà huyễn thuật nói Pháp cho người huyễn hóa nghe, phải dụng tâm như thế mà nói Pháp. Phải biết căn cơ của chúng sanh có lợi độn, khéo nơi tri kiến không bị ngăn ngại, lấy tâm đạì bi ngợi khen Pháp Đại thừa, nghĩ nhớ đền trả ơn Phật, chớ để ngôi Tam Bảo dứt mất, như vậy mới nên nói Pháp”.
Khi ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy rồi, tám trăm Cư sĩ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Con không được biện tài như thế, nên không dám lãnh đến thăm bịnh ông.
ĐẠI CA DIẾP (12)
Phật bảo Đại Ca Diếp :
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.
Ca Diếp bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Là vì sao? - Con nhớ lại trước kia, khi khất thực trong xóm nhà nghèo, lúc ấy ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng : Này Ngài Đại Ca Diếp! Có lòng từ bi mà không phổ cập là bỏ nhà giàu mà đi đến nhà nghèo. Ngài Ca Diếp ! Ở Pháp bình đẳng nên đi khất thực theo thứ lớp. Vì không ăn mà đi khất thực ; vì phá tướng hòa hiệp mà bốc cơm ăn ; vì không nhận mà nhận món ăn của người ; vì tưởng “không tụ” mà vào làng xóm ; có thấy sắc cũng như người đui ; có nghe tiếng cũng như vang ; có ngửi mùi cũng như gió ; lúc nếm vị không phân biệt ; chạm các vật như trí chứng(13) ; biết các Pháp tướng như huyễn, không tự tánh, không tha tánh, trước vốn không sanh, nay cũng không diệt. Ngài Ca Diếp ? Nếu có thể không bỏ bát tà(14) mà vào bát giải thoát(15), dùng tướng tà mà vào Chánh pháp, dùng một bữa ăn mà thí cho tất cả, cúng dường chư Phật và các bực Hiền Thánh rồi sau mới ăn. Ăn như thế, không phải có phiền não, không phải rời phiền não, không phải vào định ý(15), không phải ra định ý, không phải ở thế gian, không phải ở Niết bàn, người thí không có phước lớn, không có phước nhỏ, không được lợi ích, không bị tổn hại, đó chính là vào Phật đạo, không nương theo hạnh Thanh Văn. Ngài Ca Diếp ? Nếu ăn như thế là ăn đồ cúng thí của người không uổng vậy.
Bạch Thế Tôn ! Lúc đó con nghe ông Duy Ma Cật nói lời ấy tỏ ngộ được điều chưa từng có, càng sâu khởi tâm cung kính tất cả các vị Bồ Tát. Con lại nghĩ rằng : “Kẻ danh gia này có biện tài trí tuệ mới được như thế ? Ai nghe mà chẳng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ? Từ ấy đến nay, con chẳng còn đem hạnh Thanh Văn(17), Bích Chi Phật (18) để khuyên dạy người, vì thế nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.
TU BỒ ĐỀ (19)
Phật bảo Tu Bồ Đề :
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.
Tu Bồ Đề bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? - Nhớ lại thuở trước, con vào khất thực nơi nhà ông, lúc đó trưởng giả Duy Ma Cật lấy cái bát của con đựng đầy cơm rồi nói với con rằng : “Thưa Ngài Tu Bồ Đề ! Đối với cơm bình đẳng, thì các Pháp cũng bình đẳng, các Pháp bình đẳng thì cơm cũng bình đẳng, đi khất thực như thế mới nên lãnh món ăn. Như Tu Bồ Đề không trừ dâm nộ si cũng không chung cùng với nó, không hoại
thân mình mà theo một tướng, không dứt si ái sanh ra giải thoát, ở tướng ngũ nghịch(20) mà đặng giải thoát, không mở cũng không buộc, không thấy tứ đế(21) cũng không phải không thấy tứ đế, không phải đắc quả cũng không phải không đắc quả, không phải phàm phu cũng không phải rời phàm phu, không phải thánh nhơn, không phải không thánh nhơn, tuy làm nên tất cả các Pháp mà rời tướng các Pháp, thế mới nên lấy món ăn. Như Tu Bồ Đề
không thấy Phật không nghe Pháp, bọn lục sư ngoại đạo(22) kia như Phú Lan Na Ca Diếp, Mạc Dà Lê Câu Xa Lê Tử , San Xà Dạ Tỳ La Chi Tử , A Kỳ Đa Xy Xá Khâm Ba La, Ca La Cưu Đà Ca Chiên Diên, Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử là thầy của Ngài. Ngài theo bọn kia xuất gia, bọn lục sư kia đọa, Ngài cũng đọa theo, mới nên lấy món ăn. Tu Bồ Đề ! Nếu Ngài vào nơi tà kiến, không đến bờ giác, ở nơi tám nạn, không được khỏi nạn, đồng với phiền não, lìa Pháp thanh tịnh, Ngài được vô tránh tam muội(23), tất cả chúng sanh cũng được tam muội ấy, những người thí cho Ngài chẳng gọi phước điền, những kẻ cúng dường cho Ngài đọa vào ba đường ác(24), Ngài cùng với ma nắm tay nhau làm bạn lữ, Ngài cùng với các ma và các trần lao như nhau không khác, đối với tất cả chúng sanh mà có lòng oán hận, khinh báng Phật, chê bai Pháp, không vào số chúng (Tăng), hoàn toàn không được diệt độ, nếu Ngài được như thế mới nên lấy món ăn.
Bạch Thế Tôn ! Lúc đó con nghe những lời ấy rồi mờ mịt không biết là nói gì, cũng không biết lấy lời chi đáp, con liền để bát lại muốn ra khỏi nhà ông. Ông Duy Ma Cật nói : Thưa Ngài Tu Bồ Đề! Ngài lấy bát chớ sợ ? Ý Ngài nghĩ sao ? Như Phật biến ra một người huyễn hóa và nếu người huyễn hóa đó đem việc này hỏi Ngài, chừng ấy Ngài có sợ chăng ? - Con đáp : “Không sợ !”. Trưởng giả Duy Ma Cật lại nói : Tất cả các Pháp như tướng huyễn hóa, Ngài không nên có tâm sợ sệt. Vì sao ? – Vì tất cả lời nói năng không lìa tướng huyễn hóa, chí như người trí không chấp văn tự nên không sợ. Vì sao thế ? - Tánh văn tự vốn ly, không có văn tự đó là giải thoát. Tướng giải thoát đó là các Pháp vậy”.
Khi ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy rói, hai trăm Thiên Tử được Pháp nhãn thanh tịnh. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.
PHÚ LÂU NA (25)
Phật bảo Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử :
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.
Phú Lâu Na bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao ? Nhớ lại trước kia con ở trong rừng lớn, dưới gốc cây nói Pháp cho các Tỳ Kheo mới học, lúc đó ông Duy Ma Cật đến bảo con : “Thưa Phú Lâu Na ! Ngài nên nhập định trước để quán sát tâm địa của những người này, rồi sau mới nên nói Pháp. Ngài chớ đem món ăn dơ để trong bát báu, phải biết rõ tâm niệm của các vị Tỳ kheo này, chớ cho ngọc lưu ly đồng với thủy tinh, chớ nên dùng pháp tiểu thừa mà phát khởi cho họ, những người kia tự không có tì vết, chớ làm cho họ có tì vết, họ muốn đi đường lớn, chớ chỉ lối nhỏ. Ngài chớ nên đem biển lớn để vào dấu chơn trâu, chớ cho ánh sáng mặt trời đồng với lửa đom đóm. Ngài Phú Lâu Na ! Những vị Tỳ kheo này đã phát tâm đại thừa từ lâu, giữa chừng quên lãng, nay tại sao lại lấy pháp tiểu thừa dẫn dạy họ? Tôi xem hàng tiểu thừa trí tuệ cạn cợt cũng như người mù, không phân biệt được căn tánh lợi độn của chúng sanh.
Lúc bấy giờ ông Duy Ma Cật liền nhập tam muội (chánh định) làm cho những vị Tỳ kheo đó biết được kiếp trước của mình đã từng ở 500 đức Phật vun trồng các cội đức, hồi hướng về đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, liền đó rỗng suốt trở lại đặng bổn tâm (Đại thừa). Khi ấy, các vị Tỳ kheo cúi đầu đãnh lễ nơi chơn ông Duy Ma Cật, ông liền nhân đó nói pháp làm cho tất cả không còn thối lui nơi đạo vô thượng Bồ Đề.
Con nghĩ hàng Thanh Văn như con không quán được căn cơ của người, không nên nói Pháp. Vì thế con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.
MA HA CA CHIÊN DIÊN (26)
Phật bảo Ma Ha Ca Chiên Diên :
– Ông đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.
Ca Chiên Diên bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? Nhớ lại lúc trước, Phật nói lược qua yếu chỉ các Pháp cho các Tỳ Kheo nghe, sau khi đó, con diễn nói lại nghĩa ấy, là những nghĩa vô thường(27), khổ(28), không(29), vô ngã(30), và tịch diệt(31).
Lúc bấy giờ ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng. Thưa Ngài Ca Chiên Diên ! Ngài chớ nên đem tâm hạnh sanh diệt mà nói Pháp thật tướng(32). Ngài Ca Chiên Diên ! Các Pháp rốt ráo không sanh, không diệt là nghĩa “vô thường” ; năm ấm rỗng không, không chỗ khởi là nghĩa “khổ” ; các Pháp rốt ráo không có, là nghĩa “không” ; ngã và vô ngã không hai, là nghĩa “vô ngã” ; Pháp trước không sanh, nay cũng không diệt, là nghĩa “tịch diệt”.
Khi ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy xong, các Tỳ Kheo kia tâm được giải thoát. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.
A NA LUẬT(33)
Phật bảo A Na Luật :
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.
A Na Luật bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? - Nhớ lại lúc trước con đi kinh hành một chỗ nọ, khi ấy có vị Phạm Vương tên Nghiêm Tịnh, cùng với một muôn Phạm Vương khác, phóng ánh sáng trong sạch rực rỡ đến chỗ con cúi đầu làm lễ và hỏi : “Thưa Ngài A Na Luật ? Thiên nhãn của Ngài thấy xa được bao nhiêu ?”. Con liền đáp : “Nhơn giả, tôi thấy cõi Tam thiên Đại thiên thế giới của Phật Thích Ca Mâu Ni đây như thấy
trái Am-ma-lặc(34) trong bàn tay vậy. Lúc đó ông Duy Ma Cật đến nói với con: “Thưa Ngài A Na Luật ? Thiên nhãn của Ngài thấy đó làm ra tướng mà thấy hay là không làm ra tướng mà thấy ? Nếu như làm ra tướng thì khác gì ngũ thông(35) của ngoại đạo, nếu không làm ra tướng thì là vô vi, lẽ ra không thấy ? Bạch Thế
Tôn ! Lúc ấy con nín lặng.
Các vị Phạm thiên nghe ông Duy Ma Cật nói lời ấy rồi đặng chỗ chưa từng có, liển làm lễ hỏi ông rằng “Bạch Ngài ở trong đời ai là người có chơn thiên nhãn (36) ?”.
Trưởng giả Duy Ma Cật đáp : “Có Phật Thế Tôn được chơn thiên nhãn, thường ở tam muội, thấy suốt các cõi Phật không có hai tướng” .
Khi ấy Nghiêm Tịnh Phạm vương cùng quyến thuộc năm trăm Phạm Vương đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đảnh lễ dưới chơn ông Duy Ma Cật rồi bỗng nhiên biến mất. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.
ƯU BA LY (37)
Phật bảo Ưu Ba Ly :
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.
Ưu Ba Ly bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? - Con nhớ lại ngày trước có hai vị Tỳ Kheo phạm luật hạnh, lấy làm hổ thẹn, không dám hỏi Phật, đến hỏi con rằng : “Dạ thưa Ngài Ưu Ba Ly ! Chúng tôi phạm luật thật lấy làm hổ thẹn, không dám hỏi Phật, mong nhờ Ngài giải rõ chỗ nghi hồi cho chúng tôi được khỏi tội ấy”. Con liền y theo pháp, giải nói cho hai vị.
Bấy giờ ông Duy Ma Cật đến nói với con : “Thưa Ngài Ưu Ba Ly, Ngài chớ kết thêm tội cho hai vị Tỳ Kheo này, phải trừ dứt ngay, chớ làm rối loạn lòng họ. Vì sao ? - Vì tội tánh kia không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa. Như lời Phật nói : “Tâm nhơ nên chúng sanh nhơ, tâm sạch nên chúng sanh sạch. Tâm cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa. Tâm kia như thế nào, tội cấu cũng như thế ấy. Các Pháp cũng thế không ra ngoài chơn như. Như Ngài Ưu Ba Ly, khi tâm
tướng được giải thoàt thì có tội cấu chăng ?”. Con đáp : “Không”. Ông Duy Ma Cật nói : “Tất cả chúng sanh tâm tướng không nhơ cũng như thế ? Thưa Ngài Ưu Ba Ly ! Vọng tưởng là nhơ, không vọng tưởng là sạch ; điên đảo là nhơ, không điên đảo là sạch ; chấp ngã là nhơ, không chấp ngã là sạch. Ngài Ưu Ba Ly ? Tất cả pháp sanh diệt không dừng, như huyễn, như chớp ; các Pháp không chờ nhau cho đến một niệm không dừng ; các Pháp đều là vọng kiến, như chiêm bao, như nắng dợn, như trăng dưới nước, như bóng trong gương, do vọng tưởng sanh ra. Người nào biết nghĩa này gọi là giữ luật, người nào rõ nghĩa này gọi là khéo hiểu.
Lúc đó hai vị Tỳ Kheo khen rằng : “Thật là bực thuợng trí ? Ngài Ưu Ba Ly này không thể sánh kịp Ngài là bực giữ luật hơn hết mà không nói được”.
Con đáp rằng : “Trừ đức Như Lai ra, chưa có bực Thanh Văn và Bồ Tát nào có thể chế phục được chỗ nhạo thuyết biện tài(38) của ông Duy Ma Cật. Trí tuệ của ông thông suốt không lường”.
Khi ấy, hai vị Tỳ kheo dứt hết nghi hối, phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và phát nguyện rằng : “Nguyện làm cho tất cả chúng sanh đều được biện tài như vậy”. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.
LA HẦU LA(39)
Phật bảo La Hầu La :
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.
La Hầu La bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? - Nhớ lúc trước kia, các Trưởng giả tử ở thành Tỳ Da Ly đến con cúi đầu làm lễ hỏi rằng ? “Thưa Ngài La Hầu La, Ngài là con của Phật vì đạo bỏ ngôi Chuyển Luân Vương(40) mà xuất gia, việc xuất gia đó có những lợi ích gì ?”. Con liền đúng theo Pháp mà nói sự ích lợi của công đức xuất gia. Lúc đó, ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng : “Thưa La Hầu La ! Ngài không nên nói cái lợi của công đức xuất gia. Vì sao ? – Không lợi không công đức, mới thật là xuất gia. Về pháp hữu vi(41) có thể nói là có lợi, có công đức còn xuất gia là pháp vô vi(42), trong pháp vô vi không lợi, không công đức - La Hầu La ? Vả chăng xuất gia là không kia, không đây, cũng không ở chính giữa ; ly sáu mươi hai môn kiến chấp(43), ở nơi Niết bàn, là chỗ nhận của ngưỡi trí, chỗ làm của bực Thánh, hăng phục các ma, khỏi ngũ đạo(44), sạch ngũ nhãn(45), đặng ngũ lực(46), lập ngũ căn(47), không làm náo người khác, rời các tạp ác(48), dẹp các ngoại đạo, vượt khỏi giả danh, ra khỏi bùn lầy ; không bị ràng buộc, không ngã sở, không chỗ thọ, không rối loạn trong lòng, ưa hộ trợ ý người khác, tùy thiền định, rời các lỗi. Nếu được như thế mới thật là xuất gia”.
Khi ấy, ông Duy Ma Cật bảo các Trưởng giả tử : “Các ngươi nay ở trong Chánh Pháp nên cùng nhau xuất gia. Vì sao ? - Phật ra đời khó gặp”.
Các Trưởng giả tử nói :
– Thưa Cư sĩ, chúng tôi nghe Phật dạy : “Cha mẹ không cho, không được xuất gia”.
Ông Duy Ma Cật nói :
– Phải, các ngươi nếu phát tâm Vô Thượng Bồ Đề(49), đó chính là xuất gia, đó chính là đầy đủ Giới Pháp.
Bấy giờ ba mươì hai vị Trưởng g,iả tử đều phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.
A NAN (50)
Phật bảo A Nan :
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật.
A Nan bạch Phật :
– Bạch Thế Tôn ? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Là vì sao ? - Nhớ lại lúc trước, Thế Tôn thân hơi có bịnh phải dùng sữa bò, con cầm bát đến đứng trước cửa nhà người đại Bà la môn. Lúc bấy giờ ông Duy Ma Cật đến bảo con : “Này A Nan ? Làm gì cầm bát đứng đây sớm thế ?”.
Con đáp : “Cư sĩ, Thế Tôn thân hơi có bịnh phải dùng sữa bò, nên tôi đến đây xin sữa”.
Ông Duy Ma Cật nói : “Thôi thôi ! Ngài A Nan chớ nói lời ấy ! Thân Như Lai là thể kim cang(51), các ác đã dứt, các lành khắp nhóm, còn có bịnh gi, còn có não gì ? - Im lặng bước đi, Ngài A Nan ! Chớ phỉ báng Như Lai, chớ cho người khác nghe lời nói thô ấy, chớ làm cho các trời oai đức lớn và các Bồ Tát từ Tịnh độ phương khác đến đây nghe được lời ấy ! Ngài A Nan ! Chuyển Luân Thánh Vương có ít phước báu còn không tật bịnh, huống chi Như Lai phước báu nhiều hơn tất cả đấy ư ? Hãy đi Ngài A Nan ? Chớ làm cho chúng tôi chịu sự nhục đó, hàng ngoại đạo Phạm Chí nếu nghe lời ấy, chắc sẽ nghĩ rằng : “Sao gọi là Thầy, bịnh của mình không cứu nổi mả cứu được bịnh ngươi khác ư ?” Nên lẽn đi mau, chớ để cho người nghe ! Ngài A nan ! Phải biết thân Như Lai, chính là Pháp Thân(52), không phải thân tư dục (53). Phật là bực Thế Tôn hơn hết ba cõi, thân Phật là vô lậu(54), các lậu đã hết, thân Phật là vô vi, không mắc vào các số lượng, thân như thế còn có bịnh gì ?”.
Bạch Thế Tôn ! Lúc đó con thật quá hổ thẹn không lẽ con gần Phật mà nghe lầm ư ? Con liền nghe trên hư không có tiếng nói rằng : “A Nan ! Đúng như lời Cư sĩ đã nói, chỉ vì Phật ứng ra đời ác đủ năm món trược (55) nên hiện ra việc ấy, để độ thoát chúng sanh thôi. A Nan! Hãy đi lấy sữa chớ có thẹn”.
Bạch Thế Tôn ! Ông Duy Ma Cật trí tuệ biện tài dường
ấy, cho nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông.
Như vậy, năm trăm vị đại đệ tử mỗi người đếu đối trước Phật trình bày chỗ bổn duyên(56) của mình, vị nào cũng khen ngợi, thuật lại những lời của ông Duy Ma Cật và đều nói : “Không kham lãnh đến thăm bịnh ông”.
Chú thích của phẩm III
1. Ðệ tử : Em, con, nghĩa là theo đạo thầy trò, thời Thầy coi trò như em, nên dùng theo cách đối với người em và cư xử. Trò thờ Thầy như cha, nên lấy theo đạo lý con người mà phụng sự Thầy. Thầy trò đối đãi với nhau nên xưng là “Ðệ tử”. Lại có nghĩa : Giác ngộ sau Phật gọi là em (đệ). Trí giác ngộ nhờ Phật phát sinh gọi là con (tử). Hai chữ “Ðệ tử”, ở đây chuyên chỉ cho hàng Thanh Văn. Dẫu biết rầng Phật là Ðạo sư trong ba cõi, cha lành của bốn loài, thời ai chẳng phải là đệ tử của Phật. Nhưng vì hàng Thanh Văn là những bậc xuất gia, theo Phật nghe pháp, hiểu biết, ngộ đạo chứng quả, nhiếp về số chúng tăng giữ gìn ngôi Tam Bảo, làm mô phạm cho ba cõi, hằng theo hầu Phật châu du giáo hóa khắp nơi. Chắng phải như hàng tại gia, tuy tin Phật mà còn phụng sự quân thân, hàng Bồ Tát dù khế hợp Phật đạo, mà lại tùy cơ tùy chỗ ứng hiện giáo hóa không định, nên trong kinh thường gọi Ðệ tử là riêng chỉ cho hàng Thanh Văn vậy.
2. Xá Lợi Phất : (Sariputra) Tàu dịch là “Thu tử”, nghĩa là con bà “Thu Lộ”. Ông là người trí tuệ cao siêu, biệt tài mẫn thiệp. Khi ông còn ở trong bụng mẹ, đã xui cho mẹ biện luận giỏi hơn người cậu là Cu Si La (Kansthla). Ðến khi ông lên 8 tuổi đã có tài diễn thuyết, cả 16 nước không ai nghi luận bằng. Sau ông theo học đạo Phật, mới bảy ngày đã thông hiểu các Pháp, nên gọi là Trí tuệ đệ nhất.
3. Diệt tận định : (Nirodbasamapatti) cũng gọi Diệt thọ tưởng định : nghĩa là diệt hết 6 thức tâm vuơng và tâm sở không còn khởi hiện hạnh. Hàng nhị thừa từ quả thứ ba sắp lên, tạm tưởng nhập Niết bàn thời nhập định này, thuộc về thánh quả chớ chẳng phải như vô tâm định của ngoại đạo.
4. Niết Bàn : (Nirvana) cũng gọi là Nê hoàn. Tàu dịch Diệt độ : Nghĩa là dứt hết phiền não nghiệp chướng vượt khỏi vòng sanh tử. Lại dịch là Viên tịch : Ðức đầy đủ khắp trần sa là “Viên”, bặt dứt nghiệp chướng khổ lụy, gọi là “Tịch”. Cũng chỉ cho bản tánh tịch tịnh, rời tất cả pháp sanh diệt khổ lụy.
6. Mục Kiền Liên : (Mua Dgalyayana) : Tàu dịch : họ Thái Thúc. Ban sơ ông tu theo ngoại đạo đã lâu mà không công hiệu gì, sau nhờ ông Xá Lợi Phất thuật lại bài kệ Nhân duyên cho ông nghe, liền tỏ ngộ : theo Phật tu hành chứng quả Thanh Văn, đặng phép Thần thông bậc nhất.
6. Chúng sanh cấu : Các tâm chấp ngã, chấp có chúng sanh. Trên bản thể chơn pháp không có chúng sanh, nếu chấp có chúng sanh thành nhơ chơn pháp, nếu ngộ được chơn pháp không có chúng sanh, thời cái nhơ chấp trước kia không còn nữa.
7. Giác quán : Cũng gọi là Tầm Từ : Suy nghĩ bằng cách tâm niệm vội vàng thô động gọi là giác. Suy nghĩ chín chắn bằng tâm nhỏ nhiệm gọi là quán. Hai món này làm chướng ngại rối loạn cho tâm định, lại làm nguyên nhân phát khởi ra lời nói năng. Nếu lìa Giác Quán thì không còn lời nói năng.
8. Ngã sở : Ngã : Ta, là lối ngoại đạo, phàm phu chấp chính thân ta có một chủ tể hằng còn, hay ngoài thân có đấng chủ tể thường còn cùng khắp, thọ dụng tất cả và hay sanh vạn vật. Ngã sỡ : vật sở hữu, phụ thuộc của Ngã (ta), ngã là chủ của vạn vật, vạn vật là sở hữu của ngã. Ðây là do tính chấp có ngã mới có ngã sở.
9. Thực tế : Cùng cực thật lý của bản thể vũ trụ, Pháp tánh chơn như.
10. Sáu trần : Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
11. Không, Vô tướng. Vô tác : Gọi là tam không. Ba môn này đều nói về Lý Không, cũng gọi là Tam tam muội.
1) Không tam muội : Quán các pháp từ nhơn duyên sanh, không có ngã và ngã sở.
2) Vô tướng tam muội : Xa lìa những tướng Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc và tướng Nam, tướng Nữ.
3) Vô tác tam muội : Ðối với các pháp xả hết tâm mong muốn, không còn sự tạo tác
12. Ðại Ca Diếp : Tàu dịch là Ẩm Quang, nghĩa là hào quang chói sáng trùm hết các ánh sáng khác. Nguyên kiếp trước ông chung đậu vàng với người ta và ra công thiếp tượng Phật, nhờ công đức ấy, nên đời đời cảm đặng cái báo thân sắc vàng ánh chóí. Khi gặp Ðức Phật ra đời giáo hóa, ông nguyện theo tu hành, sau lãnh thọ đặng chánh pháp. Trong hàng Ðại đệ tử, ông là đức hạnh bực nhất, cũng là khổ hạnh bực nhứt nữa.
13. Như trí chứng : Tức là khi Thật trí chứng chơn lý thành tựu đạo quả, toàn thân nhẹ nhàng an vui mà không sanh đắm nhiễm ; ý nói thân chạm lánh các vật tốt, xấu, êm ấm v.v... cũng không có cảm thọ mê đắm như trí chứng vậy.
14. Bát tà : 1. Tà kiến, 2. Tà tư duy, 3. Tà ngữ, 4. Tà nghiệp, 5. Tà mạng, 6. Tà phương tiện, 7. Tà niệm: 8. Tà định. Trái với Bát chánh đạo thời gọi là Bát tà.
15. Bát giải thoát : Cũng là bát bội xả. Nghĩa là tám pháp thiền định này có công năng xa lìa, trãi bỏ tất cả phiền não được giải thoát những sự triền phược trong ba cõi.
1) Nội hữu sắc tướng ngoại quán sắc : Vì muốn diệt trừ lòng tham đắm, người tu hành trước phải quán thân mình là vật nhơ nhớp, nhưng vì còn lòng tham đối với thân người, nên cũng phải quán cái thân ngưòi khác cũng như thế.
2) Nội vô sắc tướng ngoại quán sắc : Mới diệt được sắc tướng trong thân nhưng lòng tham dục đối với người ở cõi Dục khó đoạn hết, nên cũng còn quán tướng người khác bất tịnh.
3) Tịnh bội xả thân tác chứng : Ðến đây không còn tham trước tướng bất tịnh ở ngoài, chỉ ở trong cảnh định luyện tập tâm sắc quang minh trong suốt (Tịnh Bội xả). Tâm đã sáng suốt thì vui càng tăng trưởng đầy khắp trong thân (thân bội xả).
4) Hư không xứ bội xả : Người tu hành diệt được lòng tham muốn sắc thân bất tịnh của mình và của người, được nhứt tâm duyên “Không” cùng với “Không” tương ứng, tức nhập được định “Vô biên hư không xứ”.
5) Thức xứ bội xả : Do xả Hư không xứ định, nhứt tâm duyên thức. Lúc nhập định này, tức quán định, nhàm chán không ưa đắm nữa.
6) Vô sở hữu xứ bội xả : Do xả thức xứ, nhứt tâm duyên Vô sở hữu xứ. Lúc nhập định này, tức quán định y nơi năm uẩn đều không thật nên không còn ái trước nữa.
7) Phi hữu tưởng, Phi vô tưởng xứ bội xả : Do xả vô sở hữu xứ định, nhứt tâm duyên phi hữu tưởng, phi vô tưởng. Lúc nhập định này, y nơi năm uẩn đều không thật, nên tâm sanh nhàm chán.
8) Diệt thọ tưởng bội xả : Vì nhàm chán cái tâm tán loạn nên nhập định cho diệt hẳn tâm ấy đi. Khi đắc định cả rồi thì thành ra tám đạo giải thoát nên gọi là Bát giải.
16. Ðịnh ý : Tức tịnh tâm. Tu thiền định xa lìa ý tán loạn.
17. Thanh Văn : Hàng đệ tử Tiểu thừa y theo chánh giáo của Phật dạy, tu tập pháp Tứ đế, đoạn Kiến hoặc và Tư hoặc, chứng chánh quả. Có 4 bực:
1) Tu đà hoàn (Dự lưu quả), 2. Từ đà hàm (Nhứt lai quả), 3. A na hàm (Bất lai quả), 4. A la hán (Vô sanh quả).
18. Bích Chi Phật : Thuộc về trung thừa có 2 hạng :
1) Ðộc Giác : ra đời không gặp đặng Phật và giáo pháp, do căn lành sẵn có, ngó thấy cảnh tang thương, hoa tàn, lá úa v.v... ngộ lý vô thường, phát tâm xuất ly dục trần, tự tu tập pháp vô thường quán, chứng quả vô sanh khỏi vòng sanh tử trong tam giới ;
2) Duyên Giác : Ra đời gặp Phật và giáo pháp, tu tập theo phép quán 12 nhơn duyên chứng quả vô sanh (Ðồng bực A La Hán của Thanh Văn).
19. Tu Bồ Ðề : (Shabuti) Tàu dịch là Không Sanh. Bực Ðại A La Hán tỏ ngộ lý chơn không, bực nhứt trong hàng Thanh Văn.
20. Ngũ nghịch : 1) Giết cha ; 2) Giết mẹ ; 3) Giết A La Hán ; 4)Phá hòa hợp của chúng Tăng ; 5) Làm cho thân Phật chảy máu.
21. Tứ Ðế :
1) Khổ đế : tất cả cảnh khổ trong ba cõi như sanh, già, bịnh, chết v.v...
2) Tập đế : Nguyên nhân tất cả cảnh khổ, tức phiền não tham, sân, si v.v. chứa nhóm kết thành.
3) Diệt đế : Tịch diệt Niết bàn ; dứt hết phiền não nguyên nhân thống khổ, khỏi hẳn sanh tử an vui vắng lặng.
4) Ðạo đế : Các Thánh đạo, những phương pháp tu hành để đoạn phiền não, chứng Thánh quả.
22. Lục sư ngoại đạo : Sáu ông Thầy chủ trương học thuyết ngoại đạo :
1) Phú Lan Na, chủ trương thuyết đoạn diệt ;
2) Mạt Già Lê, chủ trương thuyết tự nhiên sinh ;
3) San Xà Gia, chủ trương thuyết không tu hành ;
4) A Kỳ Ða, chủ trương khổ hạnh ;
5) Ca Na, chủ trương thuyết ngụy blện ;
6) Ni Càn Ðà, chủ trương thuyết định mạng, tức Ấn Ðộ giáo bây giờ.
23. Vô tránh tam muội : Là môn chánh định cao siêu hơn hết trong các môn chánh định của hàng Thanh Văn. Môn định này do vì liễu ngộ lý không, nên bỉ, ngã đều quên, không làm tổn não chúng sanh, lại hay khiến chúng sanh không khởi phiền não.
24. Ba đường ác : Ðia ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh.
25. Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử : (Purnamaitrayaniputra) Tàu dịch là Mãn Từ Tử, nghĩa là con của ông Mãn (cha) bà Tữ (mẹ). ông có tài thuyết pháp bực nhứt trong hàng Thanh Văn.
26. Ma Ha Ca Chiên Diên : (Maha Katyayana) Tàu dịch Văn Sức, nghĩa là nói năng diu dàng, biện luận rành rẽ. Ông là người có biện tài bực nhứt trong hàng Tỳ kheo.
27. Vô thường : Tất cả pháp trong đời sanh diệt dời đổi phút chốc không dừng gọi là Vô thường. Trong Trí Ðộ Luận về quyển 23 nói : “Tất cả pháp hữu vi đều vô thường vì chập chập sanh diệt, vì thuộc nhơn duyên vậy”.
28. Khổ : Những việc bức não thân tâm gọi là khổ, như sanh, già, bịnh, chết v.v...
29. Không : Các pháp do nhân duyên sanh ra, tìm xét cùng tột không có thật thể, nên gọi là không.
30. Vô ngã : Thân thể chỉ do ngũ uẩn giả hợp không có chủ tể thường nhứt. Các pháp đều do nhân duyên sanh cũng không có ngã thể thường nhứt. Trong kinh Kim Cang nói : người thông suốt được pháp vô ngã, Như Lai gọi là Chơn Bồ Tát.
31. Tịch diệt : Tiếng Phạn gọi là Niết Bàn. Lý thể tịch tịnh lìa tất cả tướng gọi là Tịch Diệt.
32. Thật tướng : Tướng chân thật không giả dối, tức là chỉ cho bản thể vạn hữu trong vũ trụ. Bản thể ấy có khi gọi là Pháp tánh, Chơn như hay Thật tướng. Danh từ tuy khác mà thể là một.
33. A Na Luật : (Aniruddha) cũng gọi A Nậu Lầu Ðà. Tàu dịch là Như ý. Nghĩa là kiếp trước ông có cúng dường một vị Phật Bích Chi, nên đời đời cảm đặng quả báo phú túc, chỗ cầu đều mãn nguyện. Khi ông mới nhập đạo, tánh hay ưa ngủ, bị Phật quở trách ông tự hổ, tinh tấn tu tập thức luôn bảy ngày đêm đến nỗì hai mắt không thấy đường, nhờ Phật dạy tu pháp “Kim cang tam muội” nên sau ông đặng Thiên nhãn bực nhứt.
34. A Ma Lặc : Thứ trái cây hình giống trái Binh Lang (trái cau) ăn nó trừ được bịnh phong lãnh.
35. Ngũ thông : 1. Thiên nhãn thông, 2. Thiên nhĩ thông, 3. Tha tâm thông, 4. Túc mạng thông, 5. Thần túc thông.
36. Chơn thiên nhãn : Là mắt của Phật, Phật hằng ở trong định, vạn tượng đều hiện trước mắt, chưa từng không thấy, mà chưa từng có thấy, nên nói không có hai tướng.
37. Ưu Ba Ly : (Upali) Tàu dịch là Cận Chấp, nghĩa là nói lúc Phật làm Thái tử, ngài Ưu Ba Ly làm quan đại thần: thân cận giúp cho Thái tử, sau theo Phật xuất gia, chứng quả A La Hán, ngài là bực giữ luật thứ nhứt.
38. Nhạo thuyết biện tài : Bồ Tát do nội trí phát sáng hay tùy thuận căn tánh chúng sanh ưa nghe pháp mà diễn nói một cách viên dung vô ngại.
39. La Hầu La : (Rahula) Tàu dịch là Phú Chướng, nghĩa là bị ngăn chướng ở trong thai mẹ 6 năm mới sanh ra, ông là con của Phật Thích Ca. Khi bà Da Du Ðà La sanh ông ra, nhằm lúc thần A tu la lấy tay che khuất mặt trời, vì thế nên dặt tên ông là La Hầu La. Trong kinh Nhân Duyên nói : Trong 10 người đệ tử lớn của Phật, ông La Hầu La là mật hạnh bực nhứt. Ðến hội Pháp Hoa, ông được thọ ký sau sẽ thành Phật hiệu là “Ðạo thất Bảo Hoa Như Lai”.
40. Chuyển Luân Vương : có bốn : 1. Thiết Luân Vương cai trị một châu thiên hạ; 2. Ðồng Luân Vương cai trị 2 châu thiên hạ; 3. Ngân Luân Vương cai trị 3 châu thiên hạ; 4. Kim Luân Vương (cai trị 4 châu thiên hạ). Vì phước nghiệp đời trước, nên khi làm vua, có xe báu tự nhiên, hoặc bằng sắt, đồng, bạc, vàng hiện ra, vua ngồi xe đó đi tuần hay dẹp giặc trong cõi mình cai trị nên gọi là Chuyển Luân Thánh Vương.
41. Hữu vi : Các pháp có tạo tác sanh diệt, tức là chỉ tất cả hiện tượng biến thiên trong vũ trụ.
42. Vô vi : Vi là thi vi tạo tác, vô vi là cái không có thi vi tạo tác lại không bị bốn tướng Sanh, Trụ, Dị, Diệt cai quản, tức là bản thể chơn lý.
43. Sáu mươi hai món kiến chấp : Ðối với pháp ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) mỗi ấm phái ngoại đạo khởi 4 món kiến chấp sai lầm : 1) Chấp sắc lớn ngã nhỏ, ngã ở trong sắc ; 2) Chấp ngã lớn sắc nhỏ, sắc ở trong ngã ; 3) Ngoài sắc chấp ngã riêng ; 4) Ngã tức là Sắc. Sắc ấm như thế thì các ấm kia cũng thế, cộng thành 20 kiến, trải ba đời nhơn thành 60 kiến, thêm hai phần căn bản là Ðoạn kiến và Thường kiến, thành 62 món tà kiến. Vì rừng kiến chấp sai lầm ấy, nên người đời không chừa một tội lỗi nào mà không làm.
44. Ngu đạo : Năm đường : Trờí, người, ngạ quỉ, súc sanh, địa ngục.
45. Ngũ nhãn :
1) Nhục nhãn : Mắt thịt thấy gần không thấy xa, thấy ngoài không thấv trong, vì bị sắc chất ngăn ngại ;
2) Thiên nhãn : Mất của chư Thiên nhơn tu thiền định mà thành. Mắt này có thể thấy tất cả xa gần, trước sau, trên dưới, ngày đêm, vì không có sắc chất làm ngăn ngại ;
3) Huệ nhãn : mắt của hàng nhị thừa (Thanh Văn, Duyên Giác) quán thấy tất cả đều không ;
4) Pháp nhãn : mắt của Bố Tát. Bồ Tát vì độ sanh dùng Pháp nhãn thanh tịnh quán khắp tất cả các pháp và tất cả chúng sanh đem những món phương tiện dạy dỗ khiến họ tu chứng ;
5) Phật nhãn : Mắt của Phật, do trí tuệ viên mãn cứu cánh của Phật có đủ bốn con mắt trước nhưng có phán đặc biệt hơn, như : Người thấy rất xa, Phật lại thấy rất gần, người thấy tối tăm, Phật lại thấy sáng, cho đến không việc gì mà Ngài không thấy, không biết, không nghe, không cần để ý mà đều thấy nghe tất cả.
46. Ngũ căn : 1. Tín căn ; 2.Tấn căn ; 3. Niệm căn ; 4. Ðịnh căn ; 5. Huệ căn đã giải nơi 2 phẩm trong phần 37 phẩm trợ đạo số 26).
47. Ngũ lực : Tức tu năm căn trên được tăng trưởng có thế lực phá trừ 5 chướng :
1) Tín lực : tín căn tăng trưởng, phá các lòng tin sai lầm mù quáng;
2) Tấn lực : tinh tấn căn tăng trưởng phá được tính lười biếng của thân tâm; 3) Niệm lực : niệm căn tăng trưởng phá được các niệm sai lầm tà vạy ;
4) Ðịnh lực : định căn tăng trưởng phá được các tư tưởng loạn dộng ;
5) Huệ lực : huệ căn tăng trưởng phá được các sự mê lầm trong 3 cõi.
48. Tạp ác : Các việc không lành của tâm tạp nhiễm gây tạo. Hai chữ tạp ác đây, ý nói, dù làm mọi việc phước thiện mà tâm tạp nhiễm tán loạn cũng gọi là tạp ác. Chỉ dứt trừ vọng tưởng đến đạo lý cứu cánh Niết Bàn mới gọi là lìa các tạp ác.
49. Vô thượng Bồ đề : Tức trí giác tuyệt đối, cũng như chữ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có giải ở trước.
50. A Nan : Nói đủ A Nan Ðà (Anada). Tàu dịch là Khánh Hỷ, ông là con chú bác với Phật Thích Ca, học rộng. nhớ nhiều là bực đa văn thứ nhứt trong hàng Thanh Văn đệ tử.
51. Kim cang : Một chất rất cứng chắc không chi phá vỡ nó được, mà nó lại hay phá vỡ các thứ cứng
52. Pháp thân : Có 3 thứ :
1) Pháp Hóa sanh thân, tức là thân Kim cang;
2) Ngũ phần pháp thân (đã giải nơi phẩm 2) ;
3) Thật tướng của các pháp,
đồng hợp thành thân Phật.
53. Tư dục thân : Thân hình do tư tưởng ái dục đợi duyên hòa hiệp sanh ở trong 3 cõi.
54. Vô lậu : Không còn rơi lọt, tức từ các bực Thánh trong hàng Thanh Văn. Bồ Tát tu hành đã dứt hết phiền não, tự tâm thanh tịnh giải thoát, không còn nghiệp chướng rơi lọt vào trong ba cõi sanh tử nữa nên gọi là vô lậu.
55. Năm món trược :
1) Kiếp trược : thời gian biến đổi không ngừng có đủ 4 món trược dưới đây :
2) Kiến trược : sự thấy biết sai lầm, tin nhận tà vạy, chính là những món “Lợi sử” vậy.
3) Phiền não trược : tham sân lững lẫy, si mê điên đảo v.v... chính là những món “Ðộn sử’ vậy.
4) Chúng sanh trược : sanh tử, tử sanh nối luôn không dứt.
5) Mạng trược : thọ mạng ngắn ngủi.
56. Bổn duyên : Do lai duyên sự của mình.